– Cũng biết chút đỉnh.

(Đây là duyên khởi để cho Cố Hòa Thượng biết rõ nơi “Tân trụ xứ” của mình …)

– Và bây giờ, ngài đã biết được Đại Ninh cùng Phú An nằm ở nơi nào trên bản đồ Việt Nam rồi. (Đúng như ngài đã nghĩ là Phật, Bồ Tát sẽ khiến có người tới mách giúp, chỉ chỗ cho mình)

(Sau đó, những việc như hỏi kỹ địa điểm, đường đi nước bước, đến xem cuộc đất v.v… Là lẽ đương nhiên cần phái tiến hành – xin miễn đề cập tới cho đỡ dài dòng và tinh giảm hơi sức)

Cuối tháng 12/1967, ngài đến Viện Hóa Đạo nơi chùa Ấn Quang, đảnh lễ sư phụ là Hòa Thượng Hội chủ THÍCH THIỆN HÒA (Phó Tăng Thống) trình bày các lý do sau đây:

– Chánh trị đã xâm nhập vào Phật Học Viện (do mấy thầy lớn mang vào).

– Chư học Tăng không tuân theo giáo quy của nhà trường.

– Mấy thầy đồng song (bạn cùng tu) bất chấp sự thanh tịnh cần phải có của Phật Học Viện, thường xuyên tới lui, vận động phe phái chánh trị, sách động biểu tình v.v…

– Và như vậy là không thích hợp với sở nguyện (chuyên tu) của mình.

– Ơn Thầy Tổ, Giáo hội và đàn na tín thí cũng đáp đền xong. Nay đã đến lúc cần phải lo phần tịnh tu giải thoát… cùng một số lý do khác (như sức khỏe yếu kém v.v…).

Xin được từ chức Đốc giáo Phật Học Viện Huệ Nghiêm, giao trách nhiệm lại cho đệ I phụ tá là Thượng tọa THÍCH BỬU HUỆ thay thế.

Ban đầu, Hòa Thượng Hội chủ không chấp nhận, nhưng cuối cùng, đối đế quá không biết làm sao hơn nên buộc lòng phải chịu để cho ngài từ chức với điều kiện là phải từ từ chớ không được gấp quá Hòa Thượng dạy:

– Ta chấp nhận cho con từ chức ẩn tu theo sở nguyện nhưng chưa liền bây giờ mà phải chờ qua đến năm 1968 mới được đi.

Vì muốn cho sư phụ vui lòng nên ngài mới hoãn lại việc ra đi của mình và bàn giao từ từ lại cho TT. Bửu Huệ. Mãi cho đến giữa năm 1968 mới hoàn tất được hết mọi chuyện.

Trong thời gian này, thỉnh thoảng thì ngài cũng có đi đi, về về giữa Sàigòn (Huệ Nghiêm) và Đại Ninh, xúc tiến việc mua đất và mướn người Thượng(*) phát quang cây cối chung quanh vùng cho trống trải để chuẩn bị cất tịnh thất ẩn tu.

Ghi chú:

(*) Vì vùng đất mà cố Hòa thượng chọn để ẩn tu nằm cách quốc lộ khoảng 3 cây số, cạnh sông Đại Ninh của đập thủy điện Đa Nhim, nơi đây rất ít có người Kinh (Việt) ở lắm, đa số là dân sắc tộc thiểu số cư ngụ (95% cư dân nơi đây là người Thượng).

Những lúc ngài bận đi vắng như thế thì tịnh thất của ngài tại Phật Học viện Huệ Nghiêm giao cho một học tăng thị giả trông coi, (tịnh thất chỉ là một am nhỏ, lợp bằng lá dừa nước, đơn sơ và đạm bạc) quét dọn xem sóc mỗi ngày.

Có một vài chuyện cũng rất lạ lùng (và huyền bí) ở nơi tịnh thất của ngài như sau: (Thuật lại theo lời kể của một số học tăng tại Huệ Nghiêm).

– Nguyên lần đó, sau khi quét dọn bên trong tịnh thất của ngài xong rồi thì vị học tăng ấy cảm thấy hơi mệt mỏi nên khởi ra ý nghĩ là muốn tìm chỗ (đâu đó) để ngồi dựa lưng cho thoải mái và “giãn gân cốt”. Trong khi đi ngang qua bàn viết của ngài, thầy ấy tò mò nhìn vào thì thấy trên bàn đang để dở một quyển kinh (bằng chữ Nho) cùng với xấp bản thảo kinh mà ngài đang phiên dịch nên đứng lại xem (cho biết).

Thấy hay hay, và lại vì cũng đang mệt và muốn tìm chỗ ngồi để dựa lưng một chút, thôi thì sẵn có bureau và ghế đây, ta hãy cứ (tạm làm thượng tọa), ngồi vào khỏe và xem kinh luôn cho nó được “nhứt cử lưỡng tiện” (còn hơn là đứng hoài mỏi chân lắm!) Chắc có lẽ vì nghĩ như vậy nên thầy mới “vui vẻ”, khỏe khoắn “bình tọa” ngay trên ghế “thượng tọa” và cầm lấy xấp bản thảo kinh đang dịch lên xem. Nhưng vừa mới ngồi xuống xong chưa đầy một phút đồng hồ sau thì thầy bỗng chợt có cảm giác dường như chóng mặt, nên cố gắng định thần lại, thì thấy mơ hồ có một bóng người cao lớn đi đến đứng bên cạnh bàn viết, lấy tay chỉ vào người này nói với giọng giận dữ:

– Người hãy đứng lên cho mau, sao dám ngồi nơi bảo tọa của Đại Đức Pháp Sư – đoạn lấy tay xô một cái, khiến vị học tăng này té nhào xuống đất, làm cho thầy sợ quá, vội vã ngồi dậy và chạy ra ngoài.

Đây là một chuyện.

Và thêm một lần nữa, đêm đó vị học tăng khác có trách nhiệm trông nom tịnh thất của ngài, bỗng nhiên khởi lên ý nghĩ là tối nay sẽ ngủ lại trong thất của cố Hòa thượng (có lẽ thầy này cũng muốn thử xem ta có đủ “đạo lực” để nằm trên giường ngủ của “ông già” hay không. Bạn ta hôm trước mới vừa ngồi vào ghế của “ổng” thì bị xô té xuống, còn ta thì đêm nay sẽ nằm ngủ ở trên giường của “ổng” để thử xem có chuyện gì xảy ra không cho biết. Nếu mà có “cái gì đó” xảy ra cho ta thì ta sẽ phục “ông già” tu cao, còn nếu như mà ta vẫn thẳng cẳng ngủ khò một giấc cho đến sáng hôm sau thì té ra là bạn ta “nói xạo”).

Chắc có lẽ vì nghĩ như thế nên tối hôm đó thầy này không trở về phòng của mình mà lại leo lên trên giường của “ông già”, định bụng là sẽ “đánh một giấc” thẳng thừng cho khỏe. Nào dè đâu vừa nằm xuống, mới nhắm mắt thiu thiu thì thầy bỗng mơ màng thấy có một người đi đến đứng bên cạnh đầu giường, nhìn thấy một lúc rồi tỏ sắc giận mà bảo:

– Người là ai, sao dám cả gan nằm ngủ nơi đây. Hãy dậy và đi xuống ngay lập tức. Nói xong thì vị này đi ra ngoài phía bàn dịch kinh (Hộ pháp). Thầy này lúc đó phần thì buồn ngủ nên làm biếng dậy, phần thì nghĩ rằng: ta dây cũng “đường đường tăng tướng”, Đại Đức như ai vậy, ta không sợ đâu, cứ nằm lỳ ở đây thử xem đó làm gì được ta cho biết (kể ra thì thầy này cũng can trường dữ).

Đoạn thầy nằm xuống luôn chớ không chịu đi xuống theo như lời bảo khi nãy. Khoảng chừng 5 –10 phút sau, thầy thấy có 5, 6 người khác nữa đi đến, đứng nơi đầu nằm, vị đứng giữa hình như là cấp chỉ huy, mặc áo vàng, gương mặt oai vũ và có vẻ giận dữ nói:

– Đã bảo rồi mà ngươi vẫn còn chưa chịu xuống hay sao? Nói xong lấy tay khoác một cái làm cho thầy này có cảm giác bị lạnh buốt phía sau lưng, một sức lạnh thấu xương xuyên qua da thịt, tựa như có bàn tay khổng lồ bằng nước đá bợ lưng của thầy lên cao và hất xuống đất, khiến thầy bị rét run, lập cập nói không ra tiếng, la ú ớ một hồi rồi ngồi bật dậy, vội vã chạy ra khỏi phòng, mặt mày tái mét lên vì sợ.

Hai câu chuyện này được kể ra làm cho các học tăng trong Phật Học Viện (thời đó) ai cũng đều lắc đầu, le lưỡi mà nói rằng:

“Ông già” của mình tu cao ác (ôn) đến nỗi chỗ ngồi và chỗ nằm của ổng mà cũng có “long thần, hộ pháp” coi giữ nữa.

XA CHỐN THỊ THÀNH VỀ A LAN NHÃ
(Rời thành phố về nơi ẩn tu)

Khoảng giữa năm 1968, việc xây cất Hương Quang tịnh thất ở Phú An đã xong, ngài chánh thức dâng đơn từ chức lên Viện Hóa Đạo, mặc dầu rất thương tiếc cho một người đệ tử vừa có tài, vừa có đức, tuổi còn nhỏ mà đã sớm ẩn tu (năm đó ngài được 43 tuổi) nhưng biết rằng không thể nào lưu giữ con người đại tâm, đại bi, đại nguyện này lại được cả, bất đắc dĩ Hòa thượng Hội Chủ kiêm Phó Tăng Thống và Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Ấn Quang THÍCH THIỆN HÒA bắt buộc phải chấp đơn để cho ngài được thành toàn chí nguyện (mà trong lòng buồn lắm).

Chức vụ Đốc giáo Phật học viện Huệ Nghiêm được bàn giao lại cho Thượng Tọa đệ nhất phụ tá là Thượng Tọa Thích Bửu Huệ, và riêng về phần ngài, thêm một lần nữa (và cũng là lần cuối cùng) lên đường nhập thất ẩn tu vô thời hạn nơi vùng rừng núi cao nguyên của miền Trung nước Việt:

– Tổng Đại Ninh, thôn Phú An, xã Phú Hội, quận Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng (Đà Lạt). Một địa danh hoàn toàn xa lạ đối với tất cả chư Tăng, Ni, Phật tử nơi chốn thị thành.

(Đến đây Bảo Đăng tôi xin tạm dừng bút đôi phút để bình luận về việc này, một việc có thể gọi là “phi thường” mà xem như 100% chư Tăng đương thời không một ai dám nghĩ đến huống chi là thực hành!

– Ngay như cố Hòa thượng đây là một đại tăng, tuổi đời còn nhỏ (43) tài cao, đức trọng có danh chức và địa vị lớn trong giáo hội, làm Đốc giáo một Phật học viện nổi danh, Phật tử đông nhiều, ai nấy cũng đều cung kính, quý trọng … ấy vậy mà ngài vẫn không đoái tưởng đến, vứt bỏ hết tất cả chẳng chút luyến lưu, một thân, một bóng bơ vơ về ẩn tu nơi miền rừng xa, núi vắng, giữ đời sống đạm bạc, an vui, tuyệt dấu thị thành.

Nếu không phải là một bậc đại căn, đại lực, hỏi mấy ai dám “cả gan” đương nổi việc này.)

Trong Kinh “Đại Bảo Tích chương Pháp Hội Phú Lâu Na, phẩm Bồ Tát hanh”, Phật có dạy rằng:… Lại này Phú Lâu Na, Đại Bồ tát có thể rời lìa ngũ dục, thường thích xuất gia, tâm thuận xuất gia, xu hướng xuất gia, chẳng ham ngũ dục. Khi được xuất gia rồi thì rời bỏ chốn ồn náo, ở xa nơi núi rừng, chẳng mất pháp lành. Bồ tát hay thành tựu được Pháp này thì sẽ được đầy đủ tất cả công đức.

Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Tâm thường thích xuất gia,

Mà hay thường xuất gia.

Ưa thích ở núi rừng,

Chỗ tăng ích công đức.

Ở tại chỗ rảnh vắng, (1)

Thì lìa ngũ dục lạc,

Nơi ấy không ồn náo,

Không mất duyên pháp lành.

Không phải bận chuyện trò,

Đến, lui, thăm viếng nhau.

Ưa rảnh rang, vắng vẻ,

Được chư phật ngợi khen.

Vì thế chư Bồ Tát.

Phải thường ở rảnh vắng.

Chớ tham ưa thành thị,

Chỗ sanh tâm lợi dưỡng.

Nếu được lợi thì mừng,

Khi mất sanh lo buồn.

Người này dầu cúng Phật,

Chẳng gọi là cúng dường.

Muốn trừ các lỗi này,

Phải thường lìa lợi dưỡng.

Nương thân nơi lan nhã,

Tu tập các pháp không …

(Vô Nhất Đại sư – Cố Hòa Thượng Đại Ninh, Thích Thiền Tâm, chính là hạng người mà Phật đã đề cập cùng nhắn nhủ đến trong phần kinh này vậy).

Ghi chú:

(1) Nơi rảnh vắng: tức là rảnh rang và vắng vẻ, còn có một tên khác nữa là A Lan Nhã.

Sau ngày Cố Hòa Thượng rời khỏi Huệ Nghiêm về ẩn tu nơi miền sơn cước Đại Ninh rồi, thì những Phật tử trước kia đã từng quen biết với ngài tại Sài Gòn và khắp cả các nơi, thảy đều mang lòng nhớ thương, hoài vọng. Riêng các hàng tứ chúng có tâm chân thật tu hành ai nấy cũng đều ngầm tiếc nuối cho một bậc đạo cao, đức trọng, đã dũng mãnh xả hết tất cả lợi danh, chùa to, Phật lớn cùng với các vinh dự hiện có của mình trong giáo hội mà quy ẩn quá sớm nơi miền đồng núi xa xôi, cam phần đạm bạc đúng theo như chí nguyện của kẻ xuất trần.

Và mọi người (Phật tử chơn chánh) cũng đều biết thêm rằng:

– Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhứt đã bị mất đi một vị đại Tăng lỗi lạc, tài đức song toàn, thật tu, thật hạnh (Trong khi các vị Tăng sĩ giả tu, hoặc “mượn đạo tạo đời”, hoặc đắm mê danh lợi, hoặc nương nơi hình thức Phật giáo để làm chánh trị, mưu cầu quyền chức cá nhân, hoặc tiếp tay cho những người đối nghịch, quấy rối, xách động biểu tình, làm đảo loạn sự trị an trong nước v.v… thì vẫn còn nhan nhãn khắp nơi trong Giáo hội với các chức vụ này, kia quan trọng … mà lắc đầu, ngán ngẩm cho cả hai phương diện: Thế thái lẫn nhơn tình!

(Dạo ấy có người làm thơ than thở, nhớ tiếc cố Hòa Thượng rất nhiều, nhưng vì đã gần 30 năm trôi qua rồi nên hầu hết đều bị thất lạc. Trong hai lần về lại Việt Nam để truy tìm thêm tài liệu của cố Hòa Thượng cho quyển sách này, Bảo Đăng tôi chỉ góp nhặt được một ít đoạn thơ sau đây, nay cũng xin biên lên để mà “thêm nhớ thương” cho một vị Đại sư đã được nhiều cảm mến nhất của hầu hết Phật tử…

Chẳng hạn như:

Con chim cánh trắng bay về núi (1)

Bỏ chốn tương tranh lắm não phiền,

Xa lìa nhân thế đảo điên,

Lánh nơi tục lụy, đáo miền thần tiên...

Ghi chú:

(1) Chim cánh trắng là chim bồ câu: Đây là một loại chim được cả thế giới gọi là “chim hòa bình”. Riêng trong các bài thơ này có ý ám chỉ cho Hòa thượng là người hiền lành, không ưa tranh đấu.

Hoặc là:

Cánh trắng chim kia khuất dạng rồi,

Quân tử đau lòng khóc hởi ôi!

Trách bấy nhân tình sao đảo loạn,

(Biết đến thuở nao trùng hợp lại).

Hối nhiều cho mấy cũng đành thôi!

Và như sau đây:

Chim cánh trắng bay nhanh,

Về Đại Ninh núi xanh.

Một mình không bạn lữ,

An ẩn chốn am tranh.

Ngoảnh đầu trông ngùi ngậm,

Thương xót bạn đồng hành.

Tài danh cùng chức vị,

Mê đắm chạy vòng quanh.

Kể từ đó về sau, “con chim cánh trắng “THÍCH THIỀN TÂM” đã “cắt đứt dây chuông” rồi, (Mặc cho chú Điệp đứng bên ngoài cổng kêu khản tiếng) phần của ngài nay đã an nơi miền lan nhã, chỉ tội nghiệp cho những người còn lại, cưu lòng đắm lợi tham danh, lao nhao nơi chốn hí trường, như ý của đoạn thơ sau:

Mắt nhìn xem đã rõ, …

Lòng cắt mối tơ vương,

Mặc kẻ lao nhao chốn hí trường.

Ta lều tranh, núi biếc,

Trong bổn phận lo lường,

Nay tùy duyên thong thả,

Mai rửa bát đốt hương, (1)

Đem tâm quy hướng cõi thanh lương.

Mênh mang kìa biển nghiệp,

Đau khổ biết bao dường!

Quay đầu trông lại thấy thêm thương!

(Người bạn sen)

Ghi chú:

(1) Rửa bát: tức là rửa chén (dơ thành sạch) – ở đây dụ cái bát dơ cho cái tâm (dơ bẩn) của mình. Nên ở trong đạo Phật, nói rửa bát đây thì phải hiểu là rửa cái tâm của mình (cho nó sạch đi đặng hạp với tâm của Phật, Bồ tát, Tổ sư …)

(Đến đây, trước khi qua một chương mới, Bảo Đăng tôi xin lưu ý quý độc giả một điểm rất quan trọng về thời gian rời Sài Gòn của Cố Hòa Thượng để về Đại Ninh ẩn tu như sau:

– Đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên (nhưng đã có tiền định rồi) giữa các sự việc:

1. Ngài muốn rời Sài Gòn vào cuối năm 1967, nhưng ân sư của ngài là Hòa Thượng THIỆN HÒA chỉ cho phép ngài đi vào năm 1968 mà thôi.

2. Trong bài kệ tiên tri về cuộc đời của ngài do đức Chuẩn đề Bồ tát và bổn sư Phật Ấn trao cho có câu mở đầu rằng: Sáu tám lắm gian nan.

Là ý nói đến năm 1968 ngài mới bắt đầu rời Huệ Nghiêm (Sài Gòn) để ra Đại Ninh được.

3. Việc xây cất Hương Quang tịnh thất mãi cho đến năm 1968 mới xong.

4. Đến năm 1968 ngài mới được chấp đơn cho từ chức để ẩn tu.

Như thế thì ta thấy rằng:bốn, năm cái 1968 xảo hợp lẫn nhau như vậy đều là do tiền định cả. Dù ngài có muốn cải đổi hay rút ngắn thời gian lại cho sớm hơn (1967) cũng không được nữa.


PHẦN V:
ĐẠI NINH, PHÚ AN
TỊNH ĐỘ ĐẠO TRÀNG
LIÊN TÔNG KHAI SƠN TỔ SƯ
(Vô Nhất Đại Sư, THÍCH THIỀN TÂM Hòa Thượng)

A. HƯƠNG QUANG TỊNH THẤT
(Phú An Đại Ninh)

Phú An là một thôn nhỏ, nằm trong Tổng Đại Ninh, thuộc xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng (Tuyên Đức, Đà Lạt). Dân số nơi đây (vào thời đó (1968) chỉ có chừng 50 nóc gia mà trong đó khoảng 10 nhà là người Kinh (tức là người Việt của mình số nóc gia còn lại là của người THƯỢNG (dân tộc thiểu số).

Đa số nhà người Kinh thì ở gần bên quốc lộ Đà Lạt, Sài Gòn (tức là quốc lộ 20), còn nhà (sàn) của người Thượng thì nằm sâu vào trong rừng, cách quốc lộ khoảng chừng 3, 4 cây số. Thôn này nằm trên bờ sông Đại Ninh (Còn gọi là sông Đa Nhim vì ở thượng nguồn của con sông này trên Đà Lạt – có xây dựng đập thủy điện cao thế Đa Nhim), chiều ngang của con sông rộng chừng 300 thước, chảy từ hướng Tây (của ấp) qua hướng Nam Đông Nam của vùng Đại Ninh với một dòng nước ngọt, êm đềm, hiền hòa và mang nhiều chất phù sa mầu mỡ đã làm cho đất đai của vùng này (từ lâu) trở nên vô cùng phong phú …

“Hương Quang tịnh thất” là nơi của cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm ẩn tu không nằm sát ngoài quốc lộ như đa số nhà của các người kinh khác trong thôn mà lại là nằm sâu bên trong, sát với khu vực của người Thượng ở, cho nên muốn vào đến chỗ trụ xứ của ngài thì phải (đi bộ) một khoảng đường rất xa mất gần cả giờ đồng hồ mới tới, ngay bên cạnh bờ sông Đại Ninh, ngôi nhà của người kinh ở gần chỗ ngài nhất cũng cách xa cả cây số (đó là nhà của đạo hữu Minh Thiện TkT).

Sách có câu: “Cọp về núi, chim về rừng”, thì người tu hành cũng phải về nơi lan nhã (Như Bồ tát Tất đạt Đa khi xưa cũng ở lan nhã tu tập suốt 6 năm dài, sau đó mới thành Phật được) Cố Hòa thượng của chúng ta đây cũng thế. Hương Quang tịnh thất là một căn thất nhỏ, lợp ngói đỏ, lớn bằng một căn nhà hai phòng ngủ (theo tiêu chuẩn Việt Nam) có hai tầng, tầng dưới để ở và làm việc (dịch kinh), tầng trên thì để thờ Phật và lễ sám.

Kể từ khi ngài về trụ tại nơi đây, ngày đêm chăm lo trì niệm, quán tưởng không bê trễ, việc hộ thất thì đã có gia đình đệ tử là Minh Thiện TkT ở gần bên đó đảm trách (trong giai đoạn đầu), đồ ăn nấu một lần thì ăn được cả tuần lễ hay hơn nữa, thí dụ như tàu hủ kho mặn, nấm rơm kho tiêu, mì căn kho xả, ớt v.v… để vào trong ve keo hoặc lon sữa Guigoz, cứ mỗi lần ăn cơm thì mở nắp lấy ra một ít. Ngày nào cũng vậy (nhưng thỉnh thoảng thì đệ tử thương tình nên cũng có mang vào cho một ít canh rau.).

Ngoài các giờ trì niệm thì ngài làm vườn như dọn dẹp, phát cỏ, đốn cây mọc quanh thất (vì là miền rừng núi nên cây cỏ rậm rạp, muỗi, vắt cũng nhiều, nếu như không phát quang thì dễ bị bệnh sốt rét vì muỗi cắn lắm. Theo lời cố Hòa thượng kể lại cho cháu là ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang nghe thì mỗi chiều, khi mặt trời sắp lặn là muỗi mòng bay ra đầy rừng, phải dùng khói un lên cho nó bay bớt đi nơi khác, còn việc trì niệm thì phải giăng một cái mùng ở trước bàn Phật rồi ngồi vào trong đó mà lễ bái chớ không thì bị muỗi đốt, ngứa quá gải hoài, làm sao được nhứt tâm! Ấy vậy mà vẫn còn nghe nó bay vo vo bên ngoài nữa (ghê thiệt, chắc Bảo Đăng và quý vị không ở nổi đâu).

Mỗi lần ra ngoài làm vườn, trồng cây (ăn trái) chung quanh thất như mít, xoài v.v… thì ngài phải thay đồ tu ra, mặc vào áo quần ka ki (của lính) mà ngài gởi mua từ trên chợ Tùng Nghĩa (cách đó khoảng 9 10 cây số) và mang giày bố (cũng của lính) cho nó lâu rách và lâu mòn, mà còn có thể đỡ được gai gốc, cát sỏi của miền rừng núi nữa.

Có khi ngài cầm rựa (một thứ dao đi rừng của người Thượng lưỡi lớn, cán dài) có khi cầm cuốc, cuốc đất. Trông ngài lúc đó như là: đầu đội nón lá (buông) mình mặc áo quần làm vườn bằng vải ka ki cũ kỹ, đứng cuốc đất, trồng cây v.v… ai thấy mà chẳng đau lòng, đứt ruột… Đâu có ai ngờ rằng một bậc đại tăng tài đức song toàn, tiếng tăm lừng lẫy của Giáo hội, Đốc giáo một Phật học viện có hàng trăm Đại Đức tăng sinh, đệ tử, phật tử hàng ngàn, hàng muôn ở khắp nơi trong nước, một bậc thạc sư về Phật học, trí tuệ siêu tuyệt mà lại ở vào trong hoàn cảnh cô tịch và đạm bạc đến thế này. (Trong khi đó thì các vị khác thua kém rất rõ, tài đức chẳng có ra gì, mà lại ở chốn thị thành, chùa to dinh rộng, nắm giữ những chức vụ quan trọng của Phật giáo, và nhận phần cung kính, lễ bái của Phật tử. So sánh về phẩm cách cao thượng cùng với sự thoát trần và “giai KHÔNG” giữa hai đàng thì cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm và các vị đó thiệt là cách biệt quá xa, tựa như một người ở đầu non, còn một người ở nơi vực thẳm vậy).

Đây mới thật sự gọi là KHÔNG (không chùa, không đệ tử, không đàn na, không danh, không lợi, không sắc (tưởng), không tài lộc (bần tăng), không cần ai khen, ai chê, v.v… theo như các thói thường tình nhân thế.

Các vị tu hành thuộc đàn hậu tấn sau này nên xem gương của cố Hòa thượng rồi ngó lại tài, đức của mình mà phát lòng tâm quý, cố gắng tịnh tu, cho khỏi uổng danh là: Như lai sứ giả… Cũng khỏi phụ ơn của tính thí, đàn na (một trong tứ ân) đã vì mình mà cung kính cúng dường tứ sự.

Trong kinh Tổ sư có dạy:

– Người tu hành luôn luôn cần phải nghĩ đến “Ân của thí chủ”. Sao gọi là: Vì nghĩ Ân thí chủ?

Nghĩ đến Ân thí chủ là như vầy:

– Kẻ xuất gia hôm nay, đồ mặc thức ăn, đều nhờ tín thí, thuốc men giường chiếu, cũng của đàn na. Người (thí chủ) nhọc sức cấy cày, vẫn còn kém thiếu. Ta ngồi không thọ hưởng, sao nỡ an lòng? kẻ dệt may gian khổ, chẳng kể đêm hôm. Ta y phục dư thừa, há không mến tiếc?

Người nhà lá vách phên, trọn đời bận rộn. Ta nền cao đền rộng, thong thả quanh năm. Đem công sức khó nhọc để cung cấp cho ta sự an nhàn, lòng nào vui được? Lấy tài lợi riêng để giúp cho ta được no đủ, lý có hợp không?

Thế nên tự nghĩ:

– Phải vận lòng bi trí, tu phước huệ trang nghiêm, để đàn tín được phước duyên, chúng sanh nhờ lợi ích. Bằng chẳng vậy, thì chút hột cơm tấc vải, đền đáp có phân. Thân nô dịch súc sanh, nợ nần phải trả (1).

(Liên Tông thập nhứt tổ Thiệt Hiền đại sư soạn, Vô Nhất Đại sư Thích Thiền Tâm dịch)

Ghi chú:

(1) Ý nói nếu không chơn thật tu hành thì ăn của người tín thí một hột cơm, nhận của đàn na một tấc vải. Kiếp sau cũng phải làm thân ở đợ, hoặc trâu ngựa đáp đền chớ không có sai chạy một phân nào hết.

(Vì thế cho nên hễ phàm là người Sa môn Thích sử thì phải luôn nghĩ đến ơn đàn na thí chủ rồi quán lại phận mình mà cố gắng chuyên tu, như thế cũng chưa đủ nữa, còn phải đem công đức tu hành của mình mà hồi hướng cho tứ ân (trong đó có ơn của đàn việt) mới được gọi là tạm tròn bổn phận. 

Ở nơi Hương Quang tịnh thất này, cố Hòa thượng ngày đêm nhiếp tâm trì niệm tu hành, và lặng lòng quán tưởng, gần như quên bẵng tục trần.

B. CẢM HÀNG DỊ LOẠI
(Hàng dị loại cảm phục)

Vùng Phú An này (vào thời gian 1968 tức là hơn 24 năm về trước) đặc biệt là chỗ của cố Hòa thượng tịnh tu, vì là nơi rừng núi, ít có người lai vãng (đông đảo như miền phố chợ) và có lẽ cũng vì ở gần sông, suối nên có rất nhiều loại RẮN khác nhau.

Theo lời ngài kể lại, thì trong gần nửa năm đầu tiên về ẩn tu nơi đây, ngài gặp rất nhiều thứ rắn độc khác nhau, to có, trung bình có, nhỏ có. To thì cỡ bằng cột nhà, trung trung thì bằng bắp vế, nhỏ thì bằng bắp chân, cườm tay trở xuống v.v…

– Có đôi lúc sau khi làm vườn xong rồi, đến khi trở vào thất thì thấy rắn nó quấn đuôi vào trên ngạch cửa, thòng mình xuống, hả miệng, le lưỡi thở khè khè, ban đầu thì ngài cũng có ý sợ, chần chờ không dám bước qua, nhưng rồi nghĩ không lẽ đứng ở ngoài sân hoài hay là dùng cây đập đuổi thì gây thù oán khó lòng (vì rắn nó độc và thù dai lắm) thôi thì cứ niệm Phật mà bước qua đại, rủi có bị nó cắn chết thì mình cũng quy Tây, càng tốt chớ sao! Rồi ngài nhiếp tâm niệm Phật và nghĩ đến phép “từ bi quán” đoạn nhắm mắt lại (cho khỏi thấy ghê người) đi ngang qua cửa, con rắn “đánh đu” mình qua bên này, bên kia chạm vào mặt, vào cổ lạnh ngắt mà ngài cũng cứ làm tỉnh bước đi. Đến khi vào trong thất xong rồi mới mở mắt nhìn lại thì nó cũng vừa buông mình ra, rớt xuống đất nghe một cái đụi rồi bò ra ngoài rừng đi mất. (ghê quá).

– Lại có lần khác, sáng sớm thức dậy (để sửa soạn vào khóa lễ). Vừa bước xuống “đơn” (tức là cái đi văn nhỏ, bề ngang khoảng 8 tấc, bề dài khoảng hai thước rưỡi của người tu) thì ngài có cảm giác như là đạp trúng phải vật gì tròn tròn và mềm mềm, lấy làm lạ ngó xuống thì té ra đó là một con rắn hổ đen thui, to bằng bắp chân đang nằm khoanh một đống ở dưới chân giường!

Ngài nghĩ:

– Cha chả, mình đạp trúng nó một cái mạnh như vậy, chắc nó cắn mình quá. Liền niệm A Di Đà Phật năm bảy câu rồi đứng chết trân tại chỗ chớ không dám nhúc nhích. Còn con rắn kia dù bị ngài đạp trúng mà nó cũng không có phản ứng gì hung hăng hết, y ta từ từ cất đầu lên, nhìn ngài một hồi rồi le cái lưỡi (đỏ lòm ra) khè khè mấy cái đoạn nằm im trở lại (chắc nó đang say ngủ, hay là nó không có ác cảm gì với ngài cũng không chừng).

Lúc đó ngài mới dám bước đi, vừa mở cửa ra vừa niệm Phật mà bảo với “y ta” rằng:

– Thôi sáng rồi, đạo hữu cũng nên về đi để cho thầy còn niệm Phật nữa. Tưởng đâu nói khơi khơi vậy rồi thôi, không dè y ta dường như biết nghe nên y mới từ từ bung mình ra dài cả mấy thước, chầm chậm bò đến cửa một cách êm ái hòa bình, rồi ra ngoài rừng mất dạng.

– Thêm một lần khác nữa, đêm đó ngài niệm Phật và trì chú (Đại bi) đến khuya mới xong, vừa bước chân xuống cầu thang thì đạp phải lên một đống gì đó đen thui, to tướng, ngài biết chắc có lẽ là rắn (quen với mấy người quá xá rồi!) nhưng cũng làm thinh niệm A Di Đà Phật một hồi, đoạn bước đến bàn viết, vặn đèn lên cho tỏ để xem thì thấy một con rắn quá to (không biết làm sao mà nó lọt vào nhà được trong khi cửa nẻo đã đóng kín rồi. Sau này mới biết chúng nó là các loại rắn thần) đang cuộn tròn một đống bên cạnh đôi dép của mình. Nó nhìn ngài, ngài nhìn nó – hai bên làm thinh ngó nhau một chập, ngài vừa hỏi y ta rằng:

– Phải đạo hữu vào đây để nghe kinh, nghe niệm Phật không? Nếu phải thì gật đầu ba cái cho thầy biết đi. Rắn ta liền gật đầu 3 cái.

Cố Hòa thượng biềt rằng đây là loại rắn linh cũng ưa tu niệm chớ không có ý gì muốn làm hại mình, cũng như các lần trước, ngài mở cửa ra bảo thôi đạo hữu hãy về đi và y ta nhìn ngài với ánh mắt hiền lành rồi từ từ bỏ ra ngoài đi mất.

Từ đó trở đi, mỗi lần làm vườn hay tình cờ gặp phải các “người bạn dài thòn, thấy dễ sợ” này thì ngài niệm Phật cho nó nghe một hồi, rồi mạnh đường ai nấy đi, việc ai nấy làm chớ không có xảy ra chuyện gì khác lạ cả.

Biết vùng này có nhiều loại rắn linh mến mộ tu hành như vậy nên ngài mới làm pháp “Du già thí thực”, hồi hướng công đức tu niệm của mình để bố thí đến cho loài rắn và nói rằng (nói khơi khơi một mình nhưng dùng tâm tưởng và tác ý cho loài rắn được nghe):

– Vì khác loài nhau, nên từ nay nếu như quý vị muốn nghe kinh chú và niệm Phật, v.v… để tu theo thì cứ ở ngoài sân chớ đừng có vào trong thất của thầy nữa. Sau vài lần “truyền lịnh” như thế rồi từ đó về sau tuyệt nhiên không còn có một con rắn nào vào trong cốc nữa. Tuy vậy nhưng cũng chưa hết chuyện.

Số là các “y ta” vẫn còn lén lút vào trong thất chớ chẳng phải không đâu, nhưng vào rồi thì ẩn hình (vì là rắn thần nên có phép tàng hình) để không cho ngài thấy, nhưng bởi vì đã từ lâu cố Hòa thượng là người tu hành thanh tịnh nên ngài có một cảm giác rất lạ, khác với người thường, mặc dù không thấy được hình dạng của họ, mà ngài vẫn cảm biết là các “y ta” thỉnh thoảng cũng vẫn còn hiện diện trong thất, nhưng vì từ bi nên cũng không nói gì.

Có đôi khi giữa đêm ngài tình cờ thức giấc, hay trở mình, hoặc co duỗi tay chân, thì mấy “y ta” trốn không kịp, nên bị ngài rờ trúng, hoặc lăn qua đụng nhằm, ban đầu thì ngài cũng giật mình đôi chút vì cảm thấy mình chạm phải hay đạp nhằm vật chi tròn, dài láng và mát mát, tuy không biết chắc thứ gì nhưng trong bụng ngài là rắn rồi nên lấy tay sờ kỹ lại (coi có phải không) thì mấy y ta biến mất (biết bị lộ tẩy rồi nên tẩu vi thượng sách).

Nhiều lần như vậy, và ngài rõ biết một điều chắc chắn là mấy y ta chờ khi nào mình ngủ quên rồi thì tàng hình và lén bò lên giường nằm kế một bên để “dựa hơi Hòa thượng” hầu “ké” vào nơi công đức trì niệm của mình để cho sớm được thành tựu công tu của họ (giống như ăn trộm công đức vậy).

Biết được như thế rồi, ngài không được vui cho lắm. Một buổi tối nọ, sau khi xong phần tu niệm rồi, ngài xuống dưới nhà, ngồi trên ghế bắt ấn và trì chú “Triệu thỉnh” chư thần, trong tâm mật tưởng là không muốn cho các chuyện này tiếp tục xảy ra nữa. Xong pháp sự rồi ngài mới đi ngủ.

Đêm đó ngài mơ thấy như sau:

– Nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa và có người nói rằng:

– Bạch Đại Đức, có đệ tử đến thăm và xin được hầu chuyện.

Vía ngài mới ngồi dậy, bước lại mở cửa ra, thì thấy bên ngoài có một vị thần tướng cao chừng 2 thước tây, mình mặc áo lụa xanh, dung sắc hiền hòa nhưng vui vẻ, chắp tay niệm Phật và cúi đầu chào.

Ngài mời vào thất và cùng ngồi trò chuyện, vị ấy tự xưng là sơn thần của vùng này, vì ban tối Đại Đức có triệu nên mới dám đến quấy phiền.

Trong mơ ngài mới tỏ lại chuyện trên và muốn rằng các việc lén lút ăn cắp công đức tu hành như vậy không nên tiếp tục nữa vì mỗi bữa ngài đều có hồi hướng và bố thí cho hết rồi.

Sơn thần đáp:

– Tôi có dẫn đại diện họ tới đây để tạ lỗi cùng Đại Đức. Vậy xin cho phép nó vào.

Ngài đồng ý và vị Sơn thần mới gọi to:

– Đạo hữu vào đi.

Sau khi gọi xong thì thấy từ bên ngoài bò vào một con rắn quá lớn, to như cậy cột nhà, mình rắn, đầu người đến trước mặt ngài cúi đầu tạ lỗi, nói tiếng (người) rằng: – Vì các con cháu quá kính trọng và thương mến ngài nên lỡ lầm làm cho ngài không được vui, phần tôi cũng có lỗi là không giáo huấn kỹ lưỡng. Xin hứa từ nay sẽ không còn tái phạm (các việc) như vậy nữa.

Sau việc này rồi, từ đó trở đi (cho đến mãi về sau này) không còn có một “y ta” nào dám lai vãng vào trong thất của ngài nữa cả.

Và cũng do từ nơi chuyện này nên cố Hòa thượng được biết chắc chắn thêm một điều nữa rằng: Ở miền rừng núi linh thiêng cũng có các cảnh giới bên kia, có chư thần cùng các loài linh vật sống lâu, ưa thích tu niệm. (Để cảm ơn Sơn thần giúp đỡ nên ngài mới cho dựng lên miếu thờ Sơn thần và Thổ địa ở trên sườn đồi và bên cạnh Phương Liên thất – đó là việc sau).

C. KHẨN HOANG

Hơn nữa năm sau đó, nhờ sức tinh tấn và thanh tịnh tu hành nên dần dần ngài phát sanh thêm trí huệ và cảm nhận được nhiều sự thấy biết khác lạ. Đó là việc ngài tiên đoán trước rằng, sau đây một thời gian không lâu, nơi đây sẽ trở thành một vùng đất tu hành và cũng là nơi quy hướng của hàng tứ chúng vân tập về cùng chung tu niệm.

Vả lại trước kia, qua bài kệ của Bồ tát trao cho, trong đó cũng đã có nói rõ ràng. Chẳng qua là duyên Phật định sẵn rồi, thôi thì ta cũng phải tùy thuận vậy chớ biết sao hơn (ẩn tu rồi mà cũng không thoát được các sự phiền nhọc).

Để chuẩn bị cho Đạo tràng trong tương lai nên ngài mới khởi ra ý niệm là khai phá thêm đất hoang chung quanh hầu sau này tứ chúng quy về có nơi an trụ. Vì chỗ ngài ở có lẫn lộn với người Thượng nên ngài mới lân la đến làm quen, những người thiểu số này họ cũng biết nói tiếng kinh và có vẻ văn minh, tử tế (1). Vả lại, từ lâu vì biết ngài là người tu hành (hơn nữa nằm thường trú ở đây nên cũng đã có nhiều lần gặp mặt nhau rồi), do đó mà họ cũng rất thân ái và kính trọng ngài lắm.

Ghi chú:

(1) Người Thượng thuộc vùng Đà Lạt và Ban Mê Thuộc là các sắc tộc thiểu số văn minh, có họ và hiền lành.

Sống đâu quen đó. Dần dần ngài thấy, biết được các người Sơn cước này giỏi dắn và rành nghề khai phá đất đai nên ngài mới ngỏ ý nhờ họ giúp đỡ về việc phát hoang thì họ liền nhận chịu. Cứ mỗi một mẫu đất được dọn sạch sẽ xong thì họ đòi giá biểu là 500 đồng, và ngài đồng ý mướn họ khẩn hoang như vậy, hễ xong được mẫu đất nào rồi thì vẽ địa đồ và trình lên chánh quyền xin hợp thức hóa giấy tờ và cấp bằng khoán đất (Vào thời gian này vì chánh quyền đang phát động chương trình “khẩn hoang lập ấp” cho nên việc hợp thức hóa đất mới khai phá rất dễ dàng).

Với phương cách này ngài được chánh quyền cấp bằng khoán sở hữu chủ đến trên mười mẫu đất (Sau này chư tăng ni về tu thì ngài cấp cho mỗi người vài ba công đất để cất cốc ở và trồng trọt, tự túc cánh sinh).

Nhờ sự phát quang này nên vùng đất hoang vu, cỏ cây rậm rạp, ít người lai vãng trước kia dần dần trở nên sáng sủa và sạch sẽ, rắn rít, muỗi mòng do đó cũng giảm bớt đi rất nhiều.

Ngài lại bắt chước theo cách thức trồng trọt của người Thượng cùng với sự chỉ dẫn thêm từ các người “bạn Sơn cước” mới này mà trồng tỉa các loại thực phẩm như: bắp, đậu, khoai lang, khoai mì (sắn) v.v… chung quanh tịnh thất. Theo lời ngài kể lại cho cháu là ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang nghe thì ban đầu việc trồng trọt rất gian lao nhưng không thâu hoạch được kết quả bao nhiêu hết bởi vì các thú rừng ra “cướp đoạt” sạch bách!!

– Như trường hợp (có lần) ngài trồng bắp bên cạnh bờ suối, đến khi bắp có trái ăn sắp sửa được rồi thì bị khỉ từ trên các ngọn cây chung quanh xuống hái hết! Các loài khỉ này rất tinh khôn, cứ mỗi con xuống hái bắp như vậy, mỗi tay nó cầm một trái cũng chưa đủ đâu mà nó còn lấy giây khoai lang cột chung quanh bụng (như giây nịt lưng vậy) rồi bẻ bắp giắt vào trong đó cho nên chỉ một con khỉ thôi mà có khi nó hái đến cả 5, 6 trái bắp! (một đàn khỉ có đến mười mấy con, cho nên nó hái ráo tuốt hết) làm cho sư khổ chủ chỉ còn có cách là đứng nhìn và lắc đầu chịu thua luôn. Còn có một lần khác nữa, ngài trồng khoai mì gần bìa rừng thì bị heo ra ủi gốc ăn củ! Hôm đó ngài tảng bộ ra thăm mấy giồng khoai mì thì gặp một con heo rừng thật to (loại heo chảng) đang cắm đầu ủi gốc mì ăn củ, nhai nghe rào rạo, ngài mới la lớn lên, làm bộ hù để cho nó giật mình chạy đi, nhưng gặp thứ heo chằng này thì nó đâu có sợ (lì lắm) vì vậy nên nó cứ đứng tỉnh bơ tiếp tục ăn khoai ngon lành, lại còn thêm 5, 6 trự heo con đồng lõa nữa chớ!

Thấy hù hoài mà nó vẫn không sợ nên ngài lại gần lấy tay đánh vào đít nó mà nó cũng cứ làm tĩnh không đi, (chắc là đang mê ăn) ngài lại lấy hai tay xô lên mông của nó đẩy đi và bảo rằng heo ơi mầy đi đi nghe không bộ định ăn hết khoai mì hổng chừa cho ta củ nào hết sao, thì nó mới chịu đứng lên, kêu ục ịch một hồi rồi 6, 7 mẹ con dắt nhau đi tuốt vô rừng! (May phước là nó không có quay đầu lại “tán”. Bởi vì miệng nó có răng nanh dài cả gang tay (heo chảng mà), nếu nó tán trúng thì bị thương liền). Đại khái là thế. (Sau này khi đất đai chung quanh được dọn dẹp trống trải hết rồi thì khỉ và heo rừng mới không còn ra nữa).

Đến đây ta thấy gì?

Ta thấy thương cố Hòa thượng rất nhiều, ngoài việc lo chơn thật tu hành, quyết tâm cầu giải thoát ra, ngài lại còn là một con người đơn giản và đạm bạc, trọn đời không màng chi đến danh lợi, khen chê. Một mình an ẩn nơi chốn núi rừng, tự tu, tự sống – chẳng những ngài không theo đuổi, tìm cầu, hay mưu tạo cho riêng mình cái vẻ hào nháng bên ngoài cho xứng với danh tiếng của một đại tăng, mà trái lại, ngài đã bỏ hẳn lại sau lưng tất cả các sự vinh dự sẵn có của mình.

Cái “phong cách” cao thượng này trong hàng ngũ chư tăng Việt Nam chắc chắn là chẳng có được mấy người – và đây mới thật gọi là TU vậy).

D. KIM XÀ THÁNH GIẢ

Đây là một tiết mục “đặc biệt” nhất trong quyển sách này, kể lại một vài việc trong số (rất nhiều) việc huyền bí của miền sơn cước linh thiêng mà cố Hòa thượng là người “chủ sự” và trực tiếp đương đầu trong suốt thời gian trên 20 năm ẩn cư tại đây tu tập.

Người đọc cần phải hội đủ lòng tin và dùng tâm trân trọng, chớ nên nói rằng: thời buổi khoa học này thì làm gì mà có các sự việc như vậy, hoặc là chừng nào tôi thấy thì tôi mới tin v.v… Bởi vì đây không phải là cảnh giới của mình, không phải là công đức tu của mình, (tức là mình tu chưa đạt đến mức như vậy) thì làm sao thấy được, gặp được hay biết được. Mà nói là “thấy mới tin”.

(Chừng nào mình tu được như người, hành sự, tỷ được như người thì chừng đó mình cũng sẽ thấy, biết, có khi còn cao siêu, lạ lùng hơn nữa kìa).

Kinh dạy:

– Này Thiện nam tử! Tín tâm có hai thứ:

– Một là tin – Hai là cầu.

Người dầu có tin nhưng chẳng thể suy cầu (1) nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.

– Tín tâm lại có hai thứ: – Một là từ nghe pháp mà sanh lòng tin – Hai là từ tư duy (2) mà sanh lòng tin. Tín tâm của người do nghe pháp mà sanh chớ chẳng phải do tư duy mà sanh nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.

Ghi chú:

(1) Suy cầu: Suy nghĩ để cầu tìm nghĩa lý chơn thật

(2) Tư duy: Nghĩ xét và suy lường một cách kỹ lưỡng

Tín tâm cũng có thêm hai thứ nữa: – Một là tin có thánh đạo – Hai là tin có người đắc đạo. Người dầu tin có thánh đạo nhưng trọn chẳng tin có người đắc đạo, nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ. Người mà tín tâm chẳng đầy đủ, thì thọ trì cấm giới cũng chẳng đầy đủ.

(Đại Bát Niết bàn kinh – Phẩm Ca Diếp Bồ tát)

Nơi đây, trong phần này, người viết tôi muốn nhấn mạnh vào hai điểm quan trọng:

1. Có rất nhiều người (tại gia lẫn xuất gia) mỗi khi nghe nói ở phương đó có một vị thượng tọa hay hòa thượng nào tu cao, đạt được vài ba sự phi thường (mà họ không bao giờ có được) thì họ hoặc là bỉu môi, hoặc là cười nhạo, chẳng những không tin mà còn nói lời bài bác rằng:

– Ối, đời này mà làm gì có việc đó chớ. Chỉ xạo mà thôi. (Họ chẳng tin có người đắc đạo mặc dù họ là người có đạo và đang tu theo đạo).

2. Có rất nhiều người (tại gia lẫn xuất gia) mỗi khi nghe nói đến việc mộng (của các bậc thanh tịnh và chân thật tu hành, ẩn cư nơi núi rừng xa vắng) thì họ bỉu môi cười nhạo, chẳng những không tin mà còn nói lời bài bác rằng:

– Ối, ở đó mà tin theo các việc mộng mị. Tu không lo mà tối ngày cứ bàn chuyện mộng mơ làm như mê tín. Bảo Đăng tôi đã nhiều lần nghe thấy như vậy (mà lại là ở nơi người xuất gia nữa chớ) nên cũng lấy làm lạ lắm. Đành rằng cái việc mộng mị có khi do tư tưởng thái quá mà sanh ra, các loại này đa phần đều không thật. Nhưng cũng có các loại mộng do tâm thanh tịnh mà cảm thấy được, các loại mộng này hầu hết đều có thiệt và sẽ xảy tới trong tương lai, nhứt định là không sai chạy đâu hết, chỉ tại vì mình tâm bất tịnh nên không thấy biết trước mà thôi.

Xin đơn cử ra vài ba ví dụ:

a. Bên đạo Tiên:

– Có nhiều vị tu tiên, do vì ẩn cư nơi chốn núi rừng thanh tịnh trải qua nhiều năm tháng nên thấy biết được chuyện quá khứ, vị lai – Như Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm, biết được chuyện 500 năm sau … mà không dám tiết lộ cơ trời nên làm ra sấm ký, nghĩa lý ẩn hiện chẳng rõ ràng, người đời không hiểu thấu, phải đợi khi chuyện xảy ra rồi thì mới rõ được.

– Có nhiều vị tiên khác biết được chuyện vài ngàn năm trước và sau, (các chuyện này có ghi rất nhiều trong sách vở) như Khổng Minh hồi đời Tam quốc thấy được chuyện 2000 năm sau.

b. Bên đạo Phật:

– Đạo Phật ta còn huyền diệu hơn đạo Tiên chẳng biết bao nhiêu lần. Như trong kinh dạy, chỗ sở chứng của các bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật thì con số thời gian mà quý ngài thấy biết về quá khứ, vị lai, thì có thể dùng chữ vô lượng, vô biên, a tăng kỳ tiếp để diễn đạt mà thôi. Như bậc A la hán, sự thấy biết của quý ngài bao gồm 84.000 kiếp về trước và 84.000 kiếp về sau (mỗi kiếp là 16.500.000 năm, theo niên lịch của thế gian). Người Phật tử học Phật (và nhất là các vị xuất gia đều biết như vậy) chớ nên hoài nghi theo kiến chấp thiển cận của riêng mình mà chê, khen, bài bác về việc MỘNG của bậc tu cao có tâm thanh tịnh … mà cho rằng không thật rồi trề nhún, rẻ khinh. Ngay như Đức Thế tôn là bậc đại giác như vậy mà khi còn làm Bồ tát (lúc tu 6 năm khổ hạnh).

– Ngài cũng nằm mộng thấy 5 điềm.

– Vua Trần Nhân Tôn (là ứng thân của Phật Thích Ca Mâu Ni) cũng nằm mộng một lần.

– Ngài A Nan cũng nằm mộng thấy bảy điềm (A Nan thất mộng). Và trong kinh (Đại Bảo Tích), phẩm Pháp hội “Tịnh Cư Thiên Tử”, Đức Thế tôn cũng có dạy về mộng như sau:

– “Này Kim Cang Tồi, (là tên của một vị đại Bồ tát) ông nên lắng nghe, khéo suy nghĩ và nhớ lấy, nay ta sẽ vì ông mà nói: Này Kim Cang Tồi, có một trăm lẻ tám tướng trong chiêm bao được thấy, hành giả cần phải biết. Những gì là một trăm lẻ tám tướng (chiêm bao)”?

Do vì như vậy (và còn nhiều nữa mà không thể nào kể ra cho hết được …) nên chúng ta là những người học Phật chớ nên quan niệm coi thường về các sự tu chứng, huyền bí và chiêm bao – (nhất là của các bậc đại sư tu hành thanh tịnh nơi chốn lan nhã) mà bị người đa văn và có học kinh điển cười rằng: chỗ hiểu biết về giáo lý của mình chưa được thấu đáo!

Sở dĩ Bảo Đăng tôi nói rào đón dài dòng như vậy, là vì trong quyển sách này, trước sau đã có đề cập đến nhiều điềm mộng của cố Hòa thượng, đặc biệt là trong đoạn “Kim Xà thánh giả” này (và trở về sau) ghi lại một vài giấc mộng lạ thường mà những người không ở trong hoàn cảnh ẩn tu, nhập thất, niệm Phật thanh tịnh như ngài (kể cả luôn các vị xuất gia cao hạ nơi thành phố ồn ào chùa to, đình lớn nữa) cũng không thể nào thấu hiểu và cảm thông được cả.

Vậy, thế nào gọi là “Kim Xà thánh giả”?

Trước khi giải thích và đi sâu vào trong chi tiết của chương này, Bảo Đăng tôi xin ghi lại một đoạn sách nói ý tương tự như sau để làm phần dẫn nhập:

– “Khu vực Lô sơn (là nơi trụ xứ của Liên Tông sư tổ Huệ Viễn Đại sư Tổ thứ nhất trong 13 vị tổ sư của Tông Tịnh độ tại Trung Hoa) có rất nhiều rắn độc, từ trước đã từng làm nguy hại đến tánh mạng của dân cư ở vùng đó. Nhưng kể từ khi có ngôi chùa Đông Lâm thì các loài rắn dữ ấy trở nên hiền lành, ngày lẫn đêm chúng thường vây quanh Đại sư để nghe giảng kinh. Bởi trường hợp này, nên Đại sư được người đương thời tôn hiệu là “Bích Xà Thánh giả” (Mấy điệu sen thanh Huệ Viễn Đại sư).

Nơi thôn Phú An này cũng thế (vào năm 1968 tức là 25 năm về trước) và đặc biệt tại chỗ ẩn tu của cố Hòa thượng, có rất nhiều loại rắn độc khác nhau, đã từng gây sợ hãi cho các cư dân người Thượng trong vùng, và cũng đã từng làm cho cố Hòa thượng của chúng ta phải bị giật mình “tí tí” vào những ngày tháng đầu tiên khi mới về “ghi danh” làm thường trú nhân tại đây (Đã có kể một tí trường hợp trong phần trước của đoạn này rồi).

Kể từ khi cố Hòa thượng về đây ẩn cư tu tập, nhờ ở nơi đạo hạnh và sự tinh cần lễ niệm, trì tụng của ngài nên dần dần cảm hóa được các loài rắn dữ, chúng nó cũng nương theo đại sư tu tập lâu ngày nên cũng được tinh thông (thành rắn thần).

Nơi miền rừng núi cao nguyên này, thường thì có rất nhiều gò mối lớn (đặc biệt của miền sơn cước), ban đầu thì cố Hòa thượng cũng tưởng đó chỉ là sự thông thường thôi, nên không lưu tâm cho mấy. Chính cái thất mà ngài đang ở (Phương Liên thất) cũng nằm trên một gò mối lớn (mà ngài đã nhờ lính công binh ủi bằng).

– Nhưng dần dần sống ở đây lâu, phần do người Thượng kể lại, phần do kinh nghiệm bản thân, nên ngài được biết chắc chắn một điều rằng tất cả gò mối đều là ổ hang của rắn cả, (rắn làm hang trong đó để ăn mối) gò mối càng lớn bao nhiêu thì rắn ở trong đó càng nhiều và càng to tướng bấy nhiêu (sống lâu năm lắm rồi).

Như vừa lược qua, căn tịnh thất của ngài ở được xây cất trên một gò mối lớn (đã được san bằng) vì vậy nên có nghĩa là trên mặt đất thì cố Hòa thượng của chúng ta ở, còn dưới mặt đất là rắn ở (mà ngài không biết). Hay nói một cách khác nữa là cố Hòa thượng đã vô tình “sống chung hòa bình” với cả đống rắn độc mà không hay biết chi hết. Sở dĩ các con rắn này nó không làm hại chi đến ngài là vì cứ mỗi tối, khi ngài niệm Phật, trì chú, hoặc lễ bái, sám hối, tụng kinh v.v… thì các “y ta” nằm im ở dưới nền nhà, hoặc là bò lên mặt đất, rồi ẩn hình nằm tại chỗ để nghe và tu theo. (Đây là lý do vì sao mà khi ngài mới dọn về như đã có lược qua trong phần trước là ở dưới chân giường, cầu thang … bỗng nhiên có rắn xuất hiện, con nào con nấy cũng dài đến cả mấy thước, to bằng bắp vế, nằm một đống đen thui trong cốc mà ngài không hiểu vì sao nó lại vào thất được, trong khi ngài đã đóng cửa vào kỹ lưỡng hết rồi).

Nhờ tu theo bằng cách “dựa hơi Hòa thượng” như thế – nhất là một đại Hòa thượng, tôn sư về Mật Tông và Tịnh Độ nữa. Trải qua nhiều tháng, năm nên các “ông dài” này dần dần trở nên linh thông biến hóa được (một năm tu theo cách “dựa hơi Hòa thượng” này bằng cả ngàn năm tự tu một mình). Do vì thầm cảm được cái ơn trọng đại đó, cho nên các “y ta” kính lễ cố Hòa thượng như bậc cha, thầy, còn các “y ta” thì giữ bổn phận của con, cháu hay đệ tử. Vì thế nên từ đó về sau các loài rắn này trở nên hiền hòa, chẳng những nó không làm cho ngài bực bội hay gây thương tổn chi, mà trái lại còn âm thầm theo bảo vệ cho “Sư phụ” nữa.

(Cũng nhờ đức độ của ngài nên mới cảm hóa được hàng dị loại như thế. Chớ nếu láu táu như mình vậy thì nó cắn cho một cái, bảo đảm 100% là “hui nhị tỳ” và “chầu Diêm vương” là cái chắc). Và cũng kể từ đó trở đi, vùng đất hoang vu trước kia dần dần trở thành ra là một “miền linh địa” (đất linh), đêm đêm đều có tiếng niệm Phật, tụng kinh cùng với tiếng mõ, chuông nhặt khoan, trầm bổng… chớ không còn đượm vẻ hoang sơ, tiêu điều như thuở trước.

Hỏi: Có chứng cớ gì cho thấy là các lời vừa nói ở trên đúng sự thật như vậy hay chăng?

– Đương nhiên là phải có chứng cớ đầy đủ, nên cố Hòa thượng mới biết đích xác như vậy, chớ nếu không thì ngài cũng chẳng thể làm sao rõ thấu mấy cái cảnh giới bí ẩn này được cả.

Sau đây là một vài chuyện liên hệ mà khi còn sanh tiền, cố Hòa thượng đã tự thân kể lại (cho ni sư Thanh Nguyệt và cháu là ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang nghe):

 – Có lần đó, cố Hòa thượng đang ngồi làm cỏ tranh và xới đất bên cạnh một gò mối lớn ở phía sau thất (Phương liên) của ngài, lúc ngài quơ tay ra sau lưng để cầm cuốc thì ngài lấy làm lạ mà nói trong bụng rằng:

– Ủa, sao bữa nay cái cán cuốc có vẻ là lạ và bự quá vậy? Ngài mới quay đầu ngó lại thì té ra là mình đang nắm nhằm cần cổ của một con rắn to bằng bắp chân người lớn, màu đen có sọc vàng, rắn ta vì bị nắm cổ nên hả miệng, le lưỡi ra khè khè năm sáu tiếng (chắc là bị nghẹt cổ) làm cho ngài hết hồn vội vã buông tay ra và bước lùi lại phía sau, niệm Phật cả mấy chục câu mới định thần được. Xong rồi ngài đứng ngó y ta một lúc và nói rằng:

– Ủa, nhà ngươi ở đâu mà ra đây, nằm sau lưng ta hồi nào vậy? Thôi hãy đi đi (ngài lấy tay xua, khởi ý đuổi đi). Rắn ta cũng ngó ngài một hồi, gật đầu mấy cái (giống như xin lỗi) rồi bò ra phía sau gò mối, ngài đứng ngó theo xem nó bò đi đâu cho biết nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy tâm hơi gì hết, ngài mới nghĩ:

– Ủa, bộ nó còn nằm gần đây sao mà không thấy bò đi đâu hết vậy kìa?

Đoạn ngài mới đi vòng quanh gò mối, tìm kiếm mấy lần mà cũng không thấy y ta đâu hết, bỗng dưng mà nó biếng dạng mất tiêu như là khói vậy. Tìm hoài mà cũng không thấy có cái miệng hang (rắn) nào hết.

Khuya lại, sau thời khóa trì niệm (gần 4 giờ sáng) ngài đang ngồi trên ghế bên cạnh bàn viết nghỉ mệt, định bụng chút nữa sẽ pha cà phê uống thì nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa. Ngài lấy làm lạ, trong bụng nghĩ rằng:

– Ủa, giờ này còn sớm quá mà sao Thượng lại tới gõ cửa vậy kìa? (Bởi vì mỗi buổi sáng mấy người Thượng ưa tới gõ cửa thất của cố Hòa thượng để hỏi việc làm như là cuốc đất, phát cỏ hoang và lên giồng trồng khoai, sắn v.v… Mỗi lần như vậy là ngài ra mở cửa thì mấy người Thượng ấy hỏi rằng. Bữa nay thầy có việc gì cho tụi tôi làm không?

Và nếu như có việc gì cần thì ngài chỉ cho họ làm, xong rồi trả tiền công cho họ). Bữa nay nghe gõ cửa (còn khuya quá) nữa nên ngài cũng nghĩ chắc là người Thượng đến xin việc làm như mọi hôm vậy.

Ngài mới đứng lên, đi ra mở cửa thì thấy: Bên ngoài, trước mắt của ngài là hai người Thượng một nam, một nữ, tuổi chừng 50, dung mạo rất đơn sơ, mặt mũi sần sùi, da dẻ đen đúa, cả hai đều mặc quần áo màu chàm trông cũng rất sơ sài, đầu hơi nhọn, đi chân đất (không có dép, giày gì hết), bàn tay nhám nhúa giống như có vảy, đang chắp tay, cúi đầu chào ngài, miệng niệm Nam mô A Di Đà Phật.

Ngài nghĩ bụng:

– Ủa, hai người Thượng này ở đâu đến mà thấy lạ mặt, mình ở đây cũng đã lâu rồi mà chưa quen với hai vợ chồng này. Coi họ có vẻ nghèo và giống như bị bịnh mới hết! Thôi để ta giúp cho họ việc làm.

– Ủa, mà sao hai người Thượng này lại lễ phép quá, biết chắp tay chào và niệm Phật nữa?

Ngài hỏi:

– Phải hai vị đến xin việc làm hôn?

Hai người ấy đáp:

– Mô Phật, Kính bạch Hòa Thượng không.

– Ủa, vậy chớ có chuyện gì cần không mà gọi cửa tôi sớm quá vậy?

Người đàn ông đáp:

– Bạch Hòa thượng, hai vợ chồng con đến đây để xin lỗi Hòa thượng về chuyện đáng tiếc ban trưa, có đứa cháu nội đã làm cho ngài giật mình. Xin Hòa thượng từ bi tha lỗi và cho vợ chồng con sám hối.

Cố Hòa thượng lấy làm kỳ, trong bụng nghĩ rằng:

– Ủa, chuyện gì mà họ xin lỗi và sám hối kìa, lạ hôn, từ hôm qua đến nay mình có gặp hay thấy đứa nhỏ nào đâu mà họ lại nói như vậy. Nghĩ thế nên ngài mới hỏi:

– Cháu nội của hai vị hả, hồi nào, nó bao nhiêu tuổi? Tôi nhớ suốt cả ngày hôm qua có gặp đứa cháu nào đâu!

Người đàn bà đáp:

– Kính bạch Hòa thượng, cháu trai của con là đứa bé hôm qua mặc áo quần đen có sọc vàng nằm hầu phía sau lưng của ngài lúc ngài làm vườn đó.

Ngài mới hỏi (mà trong bụng cũng chưa nhớ rõ ra là ai, bởi vì đâu có đứa nhỏ nào mặc áo quần đen, sọc vàng theo hầu sau lưng mình suốt ngày hôm qua đâu): – Vậy hả, cháu bé bao nhiêu tuổi?

Người đàn bà đáp:

– Kính bạch Hòa thượng, cháu được 95 tuổi!!!

Cố Hòa thượng của chúng ta giật mình, sảng sốt hỏi tiếp:

– Ủa, cháu nội mà được 95 tuổi thì hai vị đây bao nhiêu tuổi?

Người đàn ông đáp:

– Dạ con được 842 tuổi và vợ của con 760 tuổi!

Đến đây thì Hòa thượng đã rõ biết họ là ai rồi, nên ngài mới hỏi tiếp:

– Hai vị ở đâu tới đây?

Người đàn ông thưa:

– Bạch Hòa thượng, chúng con ở Huỳnh Xà thôn nằm về phía Đông của thôn Phú An này cách nơi đây khoảng 9 cây số, gia đình con có khoảng một ngàn người.

Vừa nói tới đây thì người đàn bà nắm lấy tay của ông chồng dặt dặt mấy cái như ra hiệu đừng nên nói nữa (chắc sợ bị lộ tông tích) làm cho người chồng mới nói đến câu: khoảng một ngàn người… thì làm thinh luôn.

Cố Hòa thượng gật đầu nói:

– Thôi hai vị yên lòng về đi, không sao đâu.

Nghe ngài bảo như vậy thì hai vợ chồng người này đồng chắp tay cúi chào rồi quay lưng đi vòng ra sau thất của ngài. Hòa thượng mới nom theo xem họ đi đâu và làm thế nào cho biết, thì ngài thấy khi họ ra đến phía sau rồi, cả hai người đồng hóa ra hai luồng ánh sáng màu vàng nhạt lớn bằng cườm tay, bay bỗng lên không về hướng Đông đi mất (giống như ông đi, bà xẹt vậy).

Do đó nên ngài biết rằng:

– Đứa bé 95 tuổi mặc áo đen, sọc vàng là con rắn đen có vằn vàng ngày hôm qua đã làm cho mình hết hồn!

– Hai vợ chồng này là rắn chúa (chúa động). Hang ổ chánh của họ nằm về hướng Đông của ấp Phú An, cách đây 9 cây số có tên là “Huỳnh Xà động” (động rắn vàng).

– Chắc có lẽ họ mới biết biến hình nên dung mạo còn thô sơ chớ chưa được đẹp người. Và hơn nữa chắc mỗi đêm họ ít nhiều gì đó cũng có đến đây nghe kinh và tu theo mình nên mới có vẻ kính trọng mình và biết chắp tay niệm Phật như vậy.

Đây là một chuyện. Và khởi đầu cũng do nơi chuyện này cho nên Bảo Đăng tôi (bắt chước theo chuyện của Liên Tông sư tổ, Huệ Viễn Đại sư ở Lô Sơn ngày xưa) mệnh danh cho cố Hòa thượng Tôn sư hiệu là:

“KIM XÀ THÁNH GIẢ”

(Giống như Bích Xà Thánh Giả của Lô sơn Liên Tông sư tổ, Huệ Viễn Đại sư vậy).

Kế tiếp theo đây, Bảo Đăng tôi xin kể hầu cho quý vị nghe thêm một vài chuyện nữa có liên quan đến hai vị “Kim Xà Vương” này và “Kim Xà Thánh giả”, Vô Nhất Đại sư của chúng ta:

– Nguyên gần 10 năm về trước, lúc cố Hòa thượng còn nhập thất ở Bến Tre, ngài có quen với một vị tu sĩ tên là “Ông sư Mỏ Cày”. Sở dĩ gọi là ông sư Mỏ Cày bởi vì vị này tuy có hình tướng một nhà sư Phật giáo, nhưng thật ra là một người đạo sĩ tu tiên luyện điển theo phương pháp xuất hồn, địa danh (tên của vùng đất) nơi ông sư này ở tu tên Mỏ Cày, vì thế nên mọi người và luôn cả cố Hòa thượng nữa cũng gọi tên ông sư Mỏ Cày mà thôi chớ không ai biết được tên thật của ổng là chi hết. Ông sư này rất kính quý cố Hòa thượng qua phong cách và đạo hạnh của ngài, nên thỉnh thoảng cũng có đến viếng thăm và kể lại cho ngài nghe về một vài việc chứng đắc trong đường tu (tiên) của mình, còn cố Hòa thượng thì cũng có chỉ dẫn thêm cho sư một vài pháp tu bổ túc, vì vậy mà sư có một sự mang ơn ở nơi cố Hòa thượng.

Lúc ngài về Sài gòn và làm Đốc giáo ở Phật học viện Huệ Nghiêm rồi thì sư cũng có đến thăm một lần, đến khi cố Hòa thượng lìa Huệ Nghiêm để ẩn tu thì hai đàng biệt nhau. Mãi đến mấy năm sau, sư mới tìm được lên Đại Ninh (trước sau hai lần) để thăm cố Hòa thượng và rồi sư qua đời vào mấy năm sau đó.

Lần đầu tiên sư lên thăm cố Hòa thượng vào năm 1970 (lúc đó thì ngài không còn ở Hương Quang thất nữa, mà đã dời về thất mới là Phương Liên tịnh xứ rồi) và được Hòa thượng cho phép ở lại thất của ngài vài ba hôm để đàm đạo giáo lý và tu tập (Sư thọ giáo Mật Tông từ nơi cố Hòa thượng).

Qua đêm đầu tiên, sáng lại sư có thưa với cố Hòa thượng rằng thất của ngài đang ở tu nằm trên miệng hang của một động rắn “Kim xà” rất lớn và xin Hòa thượng hãy cẩn thận vì đây là các loại rắn thần con nào con nấy cũng sống trên mấy trăm năm hết.

Cố Hòa thượng gật đầu, nói với sư là ngài đã biết việc đó từ lâu rồi (và cũng có kể lại cho sư nghe về vài ba chuyện của các Kim xà này – giống như Bảo Đăng vừa kể cho quý vị nghe vậy), từ đó sư càng thêm kính phục cố Hòa thượng lắm.

Qua ngày kế đó, sư nằm ngủ và xuất hồn ra đi “thăm” xà động này, khi thức dậy sư có thưa cùng ngài như sau:

– Nguyên từ mặt đất của nền thất Phương Liên đi thẳng xuống dưới (lòng đất) sâu 800 thước có một động rắn lớn, trong đây có khoảng 200 “ông dài” đều sống từ hơn 100 cho đến gần 1000 tuổi hết. Động này có đường hầm thông qua 3, 4 động khác nữa. Chúa tể của tất cả các động rắn này là một đôi Xà vương (rắn chúa màu nửa đen, nửa vàng và đều đã được trên một ngàn tuổi rồi. Cặp Xà Vương này hiện đang ở ngay dưới nền thất của cố Hòa thượng cùng với các con cháu, mỗi đêm đều có nghe ngài niệm Phật, trì chú và tu theo cho nên biết biến hóa và đồng thờ cố Hòa thượng làm thầy để nương theo tu tập.

Sư kể tiếp rằng, khi sư xuất hồn ra gặp hai vị Xà Vương động chúa này rồi thì mấy vị đó có nhờ sư về thưa lại với ngài là họ muốn được quy y Tam Bảo để cho được sớm thoát khỏi kiếp rắn, họ cũng nói rằng trước kia họ chỉ có sống lâu thôi chớ không biết phương cách tu hành (vì rắn lột da cho nên sống lâu lắm), cứ ban ngày thì ngó mặt trời, ban đêm thì ngó theo trăng, sao (tu theo phép luyện âm dương nhị khí) nên mặc dù sống hơn cả ngàn năm rồi mà vẫn không sao biến hóa được. Từ khi cố Hòa thượng về ở đây tu, mấy năm trôi qua cũng nhờ nương theo oai lực chú ẩn và câu niệm Phật của Hòa thượng mỗi đêm, cho nên nay đã bắt đầu biến hóa được rồi và thân mình cũng đã đổi từ màu đen ra màu hơi vàng (tức là từ Hắc xà vương chuyển dần qua Kim xà vương). Hiện thời thì hai vị đó đang cùng với các quyến thuộc đều ẩn hình ở tại đây để tu và ngầm bảo vệ cho ngài là bậc đại sư của họ.

Hòa thượng gật đầu và nhờ sư xuất hồn ra chuyển lời lại cho các vị Xà thần này biết là hôm sau Hòa thượng sẽ truyền phép Tam Quy (Quy y Phật, Pháp, Tăng – Tam Bảo) để cho họ được dự vào hàng Phật tử.

Và sư làm theo lời ngài dạy:

Hôm sau, Hòa thượng đắp y, hậu ngồi trên pháp tòa bày sẵn giữa tịnh thất, trì chú và bất ấn Triệu thỉnh, chỉ đích danh 2 vị Xà vương chúa động Huỳnh xà thôn (với sự hiện diện của sư Mỏ Cày) gọi về.

Liền sau đó ngài thấy trước mắt mờ ảo ẩn hiện ra hai vị xà thần bò vào và hiện hình ra hai người một nam, một nữ trong lứa tuổi khoảng ngoài 60, cả hai đều mặc áo ngắn màu vàng luốc, quỳ trước mặt chắp tay cúi đầu phụng mạng.

Hòa thượng mới thuyết Tam quy cho nghe và kế đó là quy y cho họ cùng các quyến thuộc, đốt chú ấn (mà ngài đã vẽ sẵn trên giấy vàng) để pháp thí cùng rải nước cam lồ xoáy tịnh, chú nguyện cho họ sau khi thoát kiếp rắn đều được sanh thiền, y như Phật pháp tu hành.

(Kể từ đây ngoài các đệ tử thuộc về nhơn đạo ra, ngài còn có thêm các đệ tử thuộc về thần đạo và súc đạo nữa – việc làm này những tăng ni (lục lục thường tài) chỉ biết tụng kinh niệm Phật, cầu phước qua ngày, không lòng tin, không tu Mật tông và không có cảm ứng đạo giao với cảnh giới vô hình đều không thể nào hiểu thấu được cả). Ngoài ra cố Hòa thượng cũng còn có quy y cho chư thần địa phương như thổ thần, sơn thần, thọ thần v.v… Các vị này cũng đều đồng nương theo ngài để tu tập hết …

Đến năm 1974, Sư Mỏ Cày có lên thăm cố Hòa thượng một lần nữa và ở cùng với ngài một tuần lễ. Sư có thưa cùng với cố Hòa thượng mấy điều sau:

1. Về tình hình đất nước vào năm tới (1975) sẽ có một sự “đổi đời” rất lớn, vô số người chết. (tức là biến cố tháng 4 năm Ất Mão 1975).

2. Sư có xuất hồn ra gặp lại các xà thần, điều đặc biệt nhất mà sư thưa cùng với cố Hòa thượng là cặp Xà vương Động chúa Huỳnh xà thôn, mấy năm qua nhờ được quy y Tam Bảo và tu theo phép của ngài truyền cho (đốt nghi thức tu để pháp thí) khi trước nên bây giờ đều được biến hóa linh thông, từ nơi Hắc xà vương này đã chuyển ra thân Kim xà vương (Rắn chúa màu vàng) và thường hay biến thành hình sư tăng mặc áo vàng, mỗi đêm đều có đi kinh hành niệm Phật chung quanh thất của Hòa thượng hầu hạ và bảo vệ cho ngài trong tất cả mọi hoàn cảnh (để báo đức tôn sư).

Mấy đêm sau, qua sự trung gian của vị sư Mỏ Cày, ngài mới cho triệu hai vị Chúa động này về. Đêm đó, cố Hòa thượng chiêm bao, thấy như sau:

– Bên ngoài có hai vị, một tăng, một ni đều mặc áo vàng đi theo sư Mỏ Cày vào trong thất quỳ xuống cung kính đảnh lễ. Ngài hỏi là ai và từ đâu đến?

Hai vị ấy thưa:

– Bạch tôn sư chúng đệ tử là động chúa Huỳnh xà thôn, nghe lịnh triệu thỉnh nên về phục mạng.

Hòa thượng truyền cho đứng dậy thì thấy hai vị ấy thân tướng cũng quang minh, thần sắc sáng sủa, nghiêm chỉnh, trên trán mỗi người đều có chữ Vạn màu đỏ, trước ngực mang một xâu chuỗi lóng lánh hào quang.

Ngài hỏi vì sao hai con lại có được các môn pháp bửu này?

Hai vị ấy thưa:

– Bạch tôn sư, chữ Vạn này là nhờ nơi quy y Tam Bảo mà có, còn xâu chuỗi này là do công tu tập mà thành. Bất cứ người nào (ý nói là xà thần) ở gần và tu theo tôn sư 3 năm đều cảm hiện ra được cả. Trong hàng quyến thuộc của con hầu hết đều được chuỗi này. Kể từ khi chúng con có 2 môn bửu bối này (chữ Vạn là một, xâu chuỗi pháp bảo là hai) trên người rồi thì mỗi khi chúng con đi dạo chơi đến nơi nào cũng đều được chư thần ở địa phương đó kính trọng, nhường đường và gọi chúng con là Phật tử.

Hòa thượng gật đầu thuyết pháp cho nghe cùng khuyến nhắc tu hành. Các vị ấy đều lạy tạ ơn và biến mất.

Mấy hôm sau “Sư ông Mỏ Cày” ra về và có thưa với cố Hòa thượng rằng:

– Lần này là lần cuối cùng gặp nhau. Sang năm (1975) sư sẽ dời về vùng núi Thất Sơn ẩn tu và sẽ tịch vào năm 1980, không còn có dịp gặp lại ngài được nữa.

(Còn Hòa thượng thì tịch 18 năm sau. Ngày mở cửa mả của ngài, hai vị Kim xà đệ tử này có đến hiện hình ra là hai con rắn màu vàng rực rỡ bò lại trước đầu mộ của ngài một chốc rồi mới bò vào trong đám cỏ tranh và biến mất, tất cả mọi người hiện diện trong buổi lễ hôm đó đều thấy rõ ràng. Bên Việt Nam chỉ trừ độc nhất một mình ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt (và bên Mỹ là Đại đức bổ sư Thích Hải Quang) là biết rõ căn cội của cặp rắn này mà thôi, ngoài ra không một ai hiểu thấu vì sao mà lại có đôi kim xà này xuất hiện đúng vào ngày “mở cửa mả” của cố Hòa thượng – nên đều có ý nghi ngờ. Đây là chuyện sau).

Sau năm 1975, có một vài vị tăng sinh của Phật Học Viện Huệ Nghiêm lên Đại Ninh thăm cố Hòa thượng và ngủ ở ngoài tu viện Hương Nghiêm, nửa đêm thức giấc (đi tiểu) ở phía sau (nhà cầu), sáng dậy nói với mấy thầy nơi tu viện rằng:

– Cha chả, ông già của tụi mình tu hành tinh tấn ác ôn!

Mấy thầy Tu viện hỏi:

– Sao biết là ông già tu hành tinh tấn?

Khách tăng trả lời rằng:

– Hồi hôm này lúc 2 giờ khuya, tôi thức dậy đi tiểu, lúc trở vào, ngó qua bên thất của ông già thấy ổng vẫn còn mặc hậu đi kinh hành ở ngoài lan can trên lầu thất của ổng, nên biết rằng ông già tu hành suốt cả đêm, tụi mình thiệt không bằng (nhưng thật ra thì người mặc áo vàng đi kinh hành chung quanh lầu đó không phải là ngài đâu, mà chính là một trong hai vị Kim xà vương đệ tử hiện hình tăng tướng đi vòng quanh thất để bảo vệ cho “Sư phụ” của mình được an lành nghỉ ngơi và tu niệm).

Đến đây, trước khi qua một chương khác, Bảo Đăng tôi xin kể hầu quý vị thêm một vài chuyện ngắn khác nữa (trong số rất nhiều chuyện mà Bảo Đăng được nghe từ nơi Đại Đức Bổn sư) như sau:

– Một lần khác, quý thầy bên Tu viện (Hương Nghiêm) dọn đất trồng lúa, bắp – nên gom các cỏ tranh, chà, bổi vừa mới làm xong … lại thành một đống lớn để trên gò mối gần đó, đốt bỏ. (Hôm ấy cố Hòa thượng ngó qua, thấy thế ngài mới rầy, bảo là đốt như vậy lỡ chết côn trùng mang tội. Sau này Đại Đức Bổn sư cũng bị ngài rầy hết mấy lần (về việc tương tự như vậy) vì đốt rác ẩu ở trên gò mối).

Khuya lại, sau khóa lễ (gần 1 giờ sáng) ngài chuẩn bị đi ngủ nghe có tiếng khóc ở phía trước cửa. Ban đầu ngài tưởng đâu vì mình sớn sác nên nghe lầm, nhưng khi lắng tai nghe kỹ lại thì rõ ràng là tiếng con nít khóc chớ không sai chạy chút nào hết, ngài mới mở cửa ra đứng bên ngoài nhìn chung quanh để tìm, đêm đó nhờ có trăng tỏ cho nên chỉ một chút sau thì ngài thấy ở dưới gốc mít phía trước thất có một đứa nhỏ đang ngồi khóc và có vẻ đau đớn lắm. Ngài lại gần hỏi con là ai, sao ngồi khóc vậy, lại đây thầy biểu coi, (ghê quá).

Đứa nhỏ đứng dậy bước ra, đó là một em bé trai khoảng 5, 6 tuổi gương mặt cũng dễ coi, mặc áo màu xanh (chắc là rắn lục), lại gần cố Hòa thượngnói con bị phỏng hết cả lưng, đau rát lắm.

Ngài hỏi vì sao mà bị như vậy?

Bé đáp:

– Hồi trưa này con đang nằm ngủ thì bị lửa ở đâu đốt cháy, vì ngủ mê nên không hay, đến khi nóng quá, giật mình thức dậy thì chạy không kịp nên cả lưng bị phỏng hết (lửa của mấy thầy đốt gò mối), xin tôn sư từ bi cứu độ.

Cố Hòa thượng vừa nghe nói vậy thì ngài biết “Bé” này thuộc về giống gì rồi, nên ngài có lòng thương, dẫn nó vào trong cốc, lấy chung nước cúng Phật trên bàn thờ xuống trì chú (A Di Đà Cam lộ Chơn ngôn) vào nước một hồi rồi rải trên lưng của nó, xong ngài mới bảo bé rằng thôi con về đi, không sao đâu mai sẽ lành.

“Bé” lạy tạ ơn, ra khỏi cửa rồi biến mất.

Đêm sau ngài nằm chiêm bao thấy có một người đàn bà chắc là “má mi” dắt nó đến cám ơn, trong mơ thấy nó hết khóc rồi và cười nói vui vẻ.

Một câu chuyện khác:

– Nơi cốc Phương Liên 2 (có hai thất Phương liên, thất 1 là của cố Hòa thượng ở thất 2 là của ni sư Thanh Nguyệt cất cho thân phụ ở. Còn ni sư thì ở tại thất Bạch Vân), phía sân trước có một gò mối lớn bằng 5, 6 chiếc đệm, trên có tre gai mọc, choán cả một khoảng đất rộng. Đã mấy lần ni sư muốn đốn bỏ, dọn dẹp cho có đất trống để trồng bắp, đậu, nhưng hễ ai vừa tới gần gò mối, định đốn cây, phát cỏ thì đều cảm thấy xây xẩm mặt mày và nhức đầu hết. Riết rồi mấy người Thượng (làm mướn) sợ quá, đứng ngoài xa chắp tay xá xá vào gò mối thôi, chớ không dám đến gần nữa. Họ nói chúng tôi không dám đâu, trong đó có thần thánh ở đừng đụng chạm đến mà chết.

Mấy năm trôi qua rồi mà gò mối cũng không sao phá được. Cuối cùng ni sư mới đem chuyện này trình lên cố Hòa thượng xin giúp đỡ vì rất cần đất trống để trồng trọt hoa màu. Lúc ấy cố Hòa thượngchưa bế quan, nghe vậy nên ngài mới vào xem tự sự. Sau khi làm phép và chú nguyện xong rồi, đêm đó ngài nằm mơ, vía thấy đi vào trong thất Phương Liên 2, lại gần chỗ gò mối, chỉ tay vào trong bụi tre, bảo:

– Vị nào trong đó hãy đi nơi khác ở, để đất trống cho ni sư trồng trọt, sinh sống và tu hành. Nói xong một lát sau thì ngài thấy từ trong gò mối và bụi tre gai có một con rắn màu đỏ, to bằng cây cột nhà (chắc là rắn lục lửa) bò ra ngó ngài một hồi, đoạn gật đầu mấy cái rồi xuống sông đi mất.

Sáng ra ngài nói cho ni sư nghe và bảo rằng gò mối nay đã phá được rồi. Trước sự hiện diện của ngài mấy người Thượng mới dám đến đốn tre và bang bằng gò mối. Bấy giờ mới khám phá ra một việc hi hữu, ấy là…trong gò mối này có một bụi “Đơn quy” rất lớn (là một vị thuốc bắc đặc biệt bổ máu – bồi bổ tổng quát) rất quý báu, củ to bằng bắp tay, bắp chân (mấy trăm năm rồi nên củ mới lớn như vậy) – nhiều đến nỗi đem về phơi cả mấy chiếc đệm mới hết.

Cố Hòa thượng nói với ni sư rằng:

– Hèn chi mà không ai phá được cái gò mối này hết. Té ra trong đó tàng ẩn vị thuốc quý này nên mới có rắn thần canh giữ. Đây cũng là cái duyên của con đó, hãy giữ kỹ mấy củ đơn quy này mà dùng từ từ. Sau này con còn nhờ nó lắm. (Quả thật vậy, nhờ uống đơn quy này mà ni sư từ từ hết bịnh phong thấp và sốt rét rừng sau phát ra tướng mập mạp, to con và hồng hào tựa như Di Lặc Bồ tát. Đây là lời của một phật tử từ bên Mỹ về thăm ni sư, khi trở qua kể lại cho Bảo Đăng nghe như vậy).

Còn nhiều chuyện lạ lùng kỳ bí khác nữa nhưng vì giới hạn của quyển sách nên Bảo Đăng xin được ngưng lại ở nơi đây để chuẩn bị bước qua một chương kế tiếp.

E. TỨ CHÚNG QUY HƯỚNG VÀ VÂN TẬP

Từ khi ngài rời khỏi Huệ Nghiêm và lìa xa các sự ồn ào của miền phố thị về ẩn cư tu tập ở nơi đây. Tháng lại, ngày qua ngài cảm thấy đã thâu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp và tiến bộ hơn trên con đường tu tập của mình, tâm trí thanh tịnh, an vui không còn bận lòng lo nghĩ đến bất cứ chuyện chi nơi chốn phồn hoa, đô hội.

Sau các thời khóa công phu rồi, ngài lo soạn, dịch kinh sách, hoặc đôi khi rỗi rảnh rảo bước kinh hành, ngày xem hoa nở, tối nhìn trăng lên, vui cùng kinh, kệ, mõ chuông và đắm chìm thân, tâm vào trong câu niệm Phật, năm tháng trôi qua, gần như quên hẳn đi tất cả người quen nơi chốn bụi hồng qua ý thơ sau đây:

Trời xanh xanh,

Trăng thanh thanh.

Xa đôi hạt trắng lướt bay nhanh,

Gió nhẹ thổi rung cành.

Trên mặt nước,

Bóng trăng in.

Dịu dàng buông ánh sáng lung linh,

Một niệm dứt bao tình.

Dưới mái tranh,

Giữ đạm thanh.

Chim chiều luyến ổ lượn chung quanh,

Nguyện lòng tìm đến bến vô sanh.

Nương nép bóng cha lành,

Một dạ quyết tu hành.

Hương Quang Thất
Vô Nhất tăng
Thích Thiền Tâm

Chúng ta nhận thấy gì qua bài thơ “tuyệt tác” này của cố Hòa thượng?

– Có thể nói rằng với bài thơ trên đây, ngài đã dung hợp được giữa tâm mình cùng với cảnh vật (tâm, cảnh hợp nhất), một sự phối hợp tuyệt diệu phi thường mà chỉ có ở nơi các bậc chân tăng đã xả được duyên trần, ẩn thân tu hành nơi A lan nhã như ngài mới có được mà thôi, ý thơ thanh thoát, đầy đạo vị cao siêu rất đáng nên bái phục.

Và càng bái phục hơn nữa qua ý thơ kế tiếp đây:

Trăng chiều long lanh khe nước bích,

Gió đưa thoáng động nhánh hoa đào.

Rừng núi xanh xanh cây phủ khắp,

Lòng nương mây bạc vút bay cao.

Liên Du Vô Nhất
Thích Thiền Tâm

Thiệt là không còn có cảnh nào đẹp hơn ở nơi đây nữa, ta hãy mường tượng ra bóng dáng của một tăng nhân, cô thân đơn độc, đứng bên sườn đồi, nhìn xuống ánh trăng chiếu long lanh trên giòng nước xanh (của con sông Đại Ninh) đang lững lờ trôi trong lặng lẽ, và rồi một cơn gió nhẹ thoáng qua làm cho khẽ động nhánh hoa đào, người tăng sĩ với vóc dáng thanh thanh, cao gầy như thân trúc Thích Thiền Tâm đang đứng im một mình trên đồi vắng, phóng mắt nhìn xa ra chốn rừng núi xanh xanh (chớ không có nhìn xem xe hơi, nhà lầu và các cảnh ồn ào nơi đô hội như các bạn đồng hành) và gởi tâm hồn mình vào trong áng bạch vân kia mà bay vút lên không của khung trời xanh bao la cao rộng.

Đây mới thật đúng là cảnh “Cao nhân nơi đầu núi” vậy. (Trước kia Bảo Đăng tôi tình cờ đọc được bài thơ của một vị Thượng tọa rất có tên tuổi tựa đề là: Cao nhân nơi đầu núi – trong khi ngài đang trụ trì ở một ngôi chùa to tại thành phố Sài Gòn! Lúc đó Bảo Đăng tôi phục thầy lắm, nhưng sau này lớn lên, làm Phật sự và có được ít nhiều hiểu biết (nơi đường đạo) rồi thì lại nghĩ rằng”: Thầy ở Sài Gòn không thì làm thế nào mà biết đến cái cảnh “Cao nhân nơi đầu núi” được.

Nay nhân đọc thơ của cố Hòa thượng Liên Du Vô Nhất Đại sư – Thích Thiền Tâm rồi thì Bảo Đăng tôi mới biết rằng: thế nào mới (thiệt là) một“Cao nhân nơi đầu núi” và “Cao nhân nơi thành thị” vậy). Bởi vì phải thiệt có ở tu chốn đầu non, rừng xa núi vắng qua nhiều năm dài, tháng rộng như cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm đây thì mới thấu đạt được cái thanh tịnh của thân tâm mình như thế nào, rồi sau đó mới có thể dung hợp được tâm mình vào trong cảnh vật (tức là lý, sự dung hợp – Tâm là lý – Vật là sự) như ý của bài thơ sau:

Thong thả chốn đầu non,

Trăm hoa tợ phấn son.

Đàn trúc nghe réo rắt,

Thông già giọng véo von.

Ráng đỏ vừa trông vầng nhật lặn,

Kế lại nhìn xem bóng nguyệt tròn.

Thanh tịnh tấm lòng không tưởng nghĩ,

Sắc, tài, danh, lợi, cháu cùng con.

Liên Du Vô Nhất

Quả đúng là một vị tôn sư đầy đủ thật tài, thật hạnh, ngôn hành tương ứng chẳng có trái nhau. Xứng đáng với hai chữ “Hiền Tăng” mà được mọi người tôn xưng (cho cố Hòa thượng) trong thời buổi cận đại này.

Qua thi ý thanh cao, thoát tục của các bài thơ trên, ta nhận thấy quả thật thân, tâm của cố Hòa thượngsau những năm tháng dài ẩn tu nơi miền Lan nhã này đã được hoàn toàn thanh tịnh.

Sách có câu rằng:

– “Xem thi văn cũng có thể biết được tánh con người”.

Trường hợp của cố Hòa thượngđây cũng thế. Sự thanh tịnh trong nội tâm ngài đã được bộc lộ ra một cách rõ ràng ở nơi thi tứ, mà nếu ai là người tinh tế và “biết xem thơ” ắt nhiên không sao nén được những tiếng chắc lưỡi khen vùi qua các áng thi văn tuyệt vời và rất ư là “A lan nhã” này vậy.

Hơn một năm dài trôi qua, ngài một thân, một mình an ẩn nơi chốn núi rừng xa vắng, ngày đêm bạn cùng kinh kệ, mõ chuông và mây ngàn, gió núi, gần như quên hẳn đi tất cả người quen nơi chốn bụi hồng.

NHƯNG…

Mặc dù một bậc hiền tăng như ngài lúc nào cũng chỉ muốn yên ẩn tu hành, giữ đời đạm bạc, an vui, trong câu niệm Phật và cực lực dụng công để chờ cho đến ngày 30 tháng chạp của cuộc đời mình rồi nhắm mắt theo Phật về Tây, biệt đường sanh tử… ấy thế mà cũng vẫn không sao tránh được dư nghiệp của mình.

Bởi vì cũng giống như cảnh: Một cái trống to (trống chầu) dù cho có đánh lên từ bên trong một căn nhà đã đóng kính hết các cửa nẻo nhưng âm thanh của nó cũng vẫn vang dội được ra bên ngoài và thấu suốt đến tận nơi xa.

Cá nhân và phong thái của Hòa thượngThích Thiền Tâm ở đây cũng tương tự như vậy. Một bậc chân tăng đầy đủ tài đức như ngài mà muốn cho bặt ăm, bặt tích.

Hơn một năm trời nghe ngóng và cầu tìm như thế trôi qua. Và rồi “tiếng trống đưa tin” của cố Hòa thượng từ miền Sơn cước Đại Ninh đã dần lan xa khắp cả mọi nơi, vang tận đến chốn Sài thành. Hàng Phật tử chơn tu và các môn đồ từ nay đã bắt đầu nghe và biết đến hai chữ ĐẠI NINH là tên của một vùng rừng núi hẻo lánh, xa xôi của miền cao nguyên Đà Lạt, một địa danh mà từ trước đến nay hoàn toàn xa lạ đối với các người dân nơi chốn thị thành, nhưng kể từ đây nó hằng được nhắc nhở và để ý đến nhiều hơn … nhiều hơn nữa, bởi vì ở nơi đó có tàng ẩn tung tích của một bậc thạc đức, chân tu:

– Hòa thượng THÍCH THIỀN TÂM, nguyên đốc giáo của Phật học viện Huệ Nghiêm, mà đại danh của ngài từ lâu đã được các hàng Phật tử xuất gia lẫn tại gia thảy đều mến thương, kính trọng …

Trên quốc lộ 20 Sài Gòn, Đà Lạt, các xe đò đưa khách đi về từ đây cũng đã bắt đầu ngừng lại thường xuyên hơn nơi đầu cầu Đại Ninh để đổ xuống nhiều loạt hành khách khác nhau, đủ mọi thành phần trong xã hội, và thiểu số người Kinh cư ngụ tại địa phương “đèo heo hút gió” này nay cũng dần cảm thấy được bớt đi niềm cô đơn cố hữu của mình qua sự rộn rịp tới lui và hỏi thăm đường sá, từ nơi các người khách mới, như là:

– Xin vui lòng chỉ cho chúng tôi lối nào để vào được đến nơi ở của Thượng Tọa Đại Ninh.

Hoặc là:

– Các bác có biết Thượng tọa Thiền Tâm ở chỗ nào trong ấp này không? V.v…

Càng ngày tin đồn càng lan rộng ra khắp cả các nơi và mọi người Phật tử ai cũng đều biết được rằng Thượng Tọa nguyên đốc giáo của Phật học viện Huệ Nghiêm Thích Thiền Tâm hơn một năm qua, đã một thân, một bóng “hẩm hút phận nghèo” về ẩn tu tại vùng sơn cước Đại Ninh, sống bơ vơ, đơn độc trong hoàn cảnh “tự lực cánh sinh” nơi miền núi rừng, sơn dã.

Các môn đồ Phật tử sau khi nghe, biết được như thế ai cũng đều bùi ngùi, chắc lưỡi, thương cho một bậc chân tu đã can đảm cam chịu cảnh tự dập vùi, xa lánh chốn phồn hoa. Vả lại, cũng đã hơn một năm trôi qua rồi, chẳng những vắng đi bóng ngài, vắng nghe lời dạy đạo, khuyến nhắc tu hành của ngài không thôi đâu mà còn nhìn ra ngoài hoàn cảnh xã hội hiện tại rối ren, rồi ngó lại trong đường đạo nữa, thấy một số lớn quý thầy lãnh đạo mang trọng trách “Như lai sứ giả” trên mình mà hướng dẫn đạo pháp một cách sai lầm, nhuộm pha toàn là màu sắc đấu tranh, chánh trị, phe nhóm hơn thua, giành giựt lợi danh lẫn nhau … mà lắc đầu ngán ngẩm.

Họ đã cảm thấy “thấm thía” mùi đạo, mùi đời rồi. Và bây giờ hơn bao giờ hết, mọi người Phật tử chơn tu lại bắt đầu nhớ đến Thượng Tọa Thích Thiền Tâm, một bậc đạo sư thuần túy, chân chính tu hành đang ẩn tu nơi miền rừng xa, núi vắng. Họ đem ra so sánh và so sánh. Ai nấy cũng đều cảm thấy nhớ nhung đến Hòa thượng thật nhiều.

Từ đây, trên con đường dẫn về vùng sơn cước Đại Ninh, dập dìu bước chân người đi, kẻ đến. Từ chúng ta bắt đầu quy hướng về nơi Thượng Tọa Đại Ninh, quyết lòng tựa nương nơi đức độ của ngài để làm kim chỉ nam trên bước đường tu học, và tìm cầu giải thoát.

Vùng A lan nhã Phú An từ nay không còn được yên ổn như xưa và Thượng Tọa Đại Ninh Thích Thiền Tâm cũng không còn được an thân để tịnh tu như các thời gian qua nữa. Ngài cảm thấy bận rộn và lo lắng thêm nhiều.


PHẦN VI:
ĐẠI NINH ĐẠO TRÀNG HƯƠNG NGHIÊM TỊNH VIỆN

Bắt đầu từ tháng 8/1969 đến sau tháng 7/1970, nương theo danh đức của ngài, một số chư Tăng Ni và Phật tử từ từ quy hướng về thôn Phú An là nơi trụ xứ của Thượng Tọa Đại Ninh Thích Thiền Tâm để định cư và tu tập.Vì đã dự biết trước rồi nên ngài cũng không mấy chi ngạc nhiên cho lắm. Đối với chư Tăng Ni mới đến ở, như vị nào đã có đầy đủ phương tiện tự túc rồi thì thôi, còn nếu như có vị nào đến thưa cùng ngài cầu xin giúp đỡ bước đầu thì ngài đều sẵn lòng tùy hỷ và chu cấp đất đai để xây dựng am cốc tu tập, trồng tỉa hoa màu, tự lực cánh sinh (cũng như ngài vậy).

Dần dần khắp mọi nơi trong thôn Phú An chỗ nào cũng có am thất của chư Tăng, ni, Phật tử dựng lên để an cư và tu tập.Vùng đất tiêu sơ ngày nào của hơn một năm trước đây nay đã hoàn toàn đổi thay bộ mặt và trở thành một “làng tu” nổi tiếng trên con đường đi Sài Gòn, Đà Lạt mà mỗi khi nhắc đến ai nấy cũng đều biết danh hết cả, nhất là mấy người tài xế và lơ xe hành khách chạy trên các lộ trình này.

Khoảng tháng 8/1970, vì nhận thấy tứ chúng đã vân tập về đông đảo, để hưng khởi và điều hòa pháp sự trong vùng vả lại vì cũng thể theo lời thỉnh cầu của tất cả nên ngài ra thất và bắt đầu chuẩn bị việc kiến lập một Tu viện để cho đại chúng có được một nơi chánh thức tề tựu về tu học và tụng giới (vào mỗi nửa tháng) cùng cử hành các đại lễ truyền thống trong đạo giáo như Phật đản, Vu lan,…

Ngài chọn một khu đồi cao, rộng và có vị trí tốt trong các phần đất mà ngài đã khẩn hoang trước kia để xây cất tu viện. Hai người bạn đồng song, cố giáo của ngài là Hòa thượng Thích Bửu Lai (Cần Thơ) và Hòa thượng Thích Bửu Huệ (Phật học viện Huệ Nghiêm – Sài gòn) được ngài gởi thư thông báo và thỉnh đến để cùng hợp sức với ngài chú nguyện cùng làm lễ đặt viên đá đầu tiên hầu cho ngôi Tịnh viện tương lai sớm được thành hình, (Trong đạo gọi là “Đức chúng như hải”, tức là muốn hưng khởi lên một Phật sự lớn, hoặc là khi mở nên một đạo tràng thì phải nhờ nơi sức đại lực của chúng tăng), nhất là ở tại một vùng đất linh thiêng vừa mới được khai phá này.

Để cho Phật sự được chóng thành tựu nên trong các khóa lễ hằng đêm ngài đều cầu nguyện chư Hộ pháp gia hộ và khởi tâm tưởng nghĩ đến chư thần tại địa phương như Sơn thần, thổ địa v.v… ám trợ cho mọi việc được thuận duyên, suôn sẻ. Việc ngài mong muốn được đáp ứng như sau:

– Đêm đó ngài mơ thấy vị sơn thần ngày nào cũng với vài ba vị khác nữa (thổ địa, thành hoàng) khăn áo chững chạc đến thăm, cùng ngài trò chuyện hứa là sẽ khiến cho có người giúp đỡ … và quả đúng như vậy:

– Nguyên ở vùng này có một đại đội công binh kiến tạo (của quân đội) đang thi hành các công tác trùng tu kiều lộ, chỉ huy trưởng đoàn công binh này là một quân nhân Phật tử tên VÂN, cấp bậc Đại úy – có lẽ do nơi sự xui khiến của sơn thần nên hôm đó vị sĩ quan ấy bỗng dưng lái xe JEEP tìm đến thăm Hòa thượng, thưa hỏi đạo lý và trình bạch lên một số chuyện riêng để cho ngài nguyện cầu giúp đỡ (Sau này các việc mà y cầu xin đều được thành tựu hết).

Trong khi trò chuyện, được biết ngài đang có ý định xây cất tu viện, người sĩ quan Phật tử này phát tâm thưa rằng:

– Bạch Thượng tọa, sẵn dịp Đại đội mà con chỉ huy đang có công tác kiến tạo trong vùng này, với khả năng trách nhiệm cùng với các phương tiện cơ giới sẵn có (như xe ủi đất, xe làm đường, xe cần trục v.v…) nếu như Thượng tọa cần đến thì con sẽ sẵn sàng và vui lòng giúp đỡ.

Hòa thượng rất mừng khi được nghe những lời đề nghị như vậy.

Và rồi các thời gian kế tiếp sau đó, cũng nhờ ở nơi người quân nhân Phật tử hữu tâm này, cho nên công việc dọn dẹp cây cỏ, ủi bằng phẳng đất đai, tạo lập đường sá, cầu cống cùng với các công trình xây cất khác đều được tiến triển khả quan (Con đường đất đỏ rộng rãi, cầu cống v.v…. Từ ngoài quốc lộ dẫn vào đến tu viện dài hơn 3 cây số đều do vị sĩ quan công binh này kiến tạo hết. Đây là lý do chánh khiến ngài cho dựng lên miếu thờ sơn thần và thổ địa ở gần nơi tịnh thất của ngài để cảm niệm công ơn đã khiến xui cho có người giúp đỡ).

Đến đầu năm 1971, tu viện được hoàn thành, thanh nhã, trang nghiêm, được Hòa thượng đặt tên là HƯƠNG NGHIÊM TỊNH VIỆN và ngài bắt đầu thành lập đạo tràng Tịnh Độ tại nơi đây để hoằng dương về Tịnh tông hầu nối tiếp công nghiệp Tịnh độ của các bậc đại sư xưa cùng báo đền ơn đức Tam Bảo.

Kể từ đó trở đi, nơi vùng “Phú An” thôn hoang sơ trước kia, đêm đêm những tiếng kinh kệ, mõ chuông (của chư tăng ni, Phật tử tu niệm tại tịnh thất) vang đều lên khắp chỗ, tiếng đại hồng chung và tiếng trống bát nhã của tu viện cúng đều đặn ngân lên trong những đêm dài, thanh âm hùng dũng vang tỏa khắp nơi, phá tan đi mọi vẻ tiêu điều lạnh lẽo của chốn núi rừng hơn một năm về trước, mang lại một niềm tin vững chắc và một sinh khí mới cho toàn thể Phật tử xa gần.

Đạo tràng Đại Ninh và Hương Nghiêm tịnh viện đã được thành hình, Pháp môn Tịnh Độ từ nay sẽ được chấn chỉnh lại và truyền lan khắp chốn. Hòa thượng Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM vừa mừng và cũng lại vừa lo. Bởi vì ngài biết chắc rằng trong những thời gian tới đây, đời mình sẽ còn phải chịu thêm nhiều nổi gian truân mới nữa.

Từ khi tu viện thành hình và đạo tràng đã được thành lập, Phật sự tại địa phương cũng đã được điều hòa rồi, vì muốn cho tông phong ngày thêm vinh chấn ngõ hầu khuyến khích đại chúng phát tâm dõng mãnh hơn trên bước đường tịnh độ nên một lần nữa Hòa thượng cùng với hai bạn đồng song là Hòa thượng Bửu Lai, Bửu Huệ, khai giảng một khóa tu tập “Tịnh độ chuyên biệt”, thuần túy dạy và thực hành riêng về giáo môn Tịnh Độ. Khóa học kéo dài gần đến 3 năm, đào tạo được nhiều vị tăng sư Tịnh Độ và khiến cho rất nhiều Phật tử khác phát khởi nguyện tâm, một lòng niệm Phật, cầu nguyện một đời đới nghiệp vãng sanh, lên ngôi bất thối, đông không kể xiết.

Các Phật tử tu theo Pháp môn Tịnh Độ nhưng vẫn còn ngờ vực trước kia, nay thảy đều tỏ ngộ được tông chỉ và chỗ quy hướng của Tịnh Tông nên họ rất vui mừng và phấn khởi (Quyển sách Niệm Phật Thập Yếu của ngài soạn ra trước kia nay lại càng được phổ cập hơn nữa và trở thành là một quyển sách gối đầu cho các người tu theo giáo môn Tịnh độ mãi cho đến bây giờ, trong quốc nội cũng như ngoài quốc ngoại). Mọi người đều hoan hỷ tán thán lên nói rằng:

– Từ đây, qua sự hoằng hóa về Tịnh tông của Vô nhất Đại sư Thích Thiền Tâm Hòa thượng, đóa sen lành Tịnh Độ đã tỏa ngát được hương thơm nơi vùng trời cao nguyên đất Việt và sẽ còn lan xa mãi cho đến về sau cùng đi đến tất cả những nơi nào mà ở đó đã và đang có các người con của Phật phát nguyện tâm quy hướng về nơi Cực lạc, dự vào chín phẩm sen vàng của miền An dưỡng.

Thanh danh của Hòa thượng Tông chủ Tịnh độ Đại Ninh Thích Thiền Tâm và đạo tràng Tịnh Độ của ngài một lần nữa được loan truyền khắp cả mọi nơi. Các bậc đại sư trong Phật học đường Nam Việt khi xưa (còn sót lại) như Hòa thượng Thích Thiện Hòa v.v… đều rất vui mừng và an ủi khi thấy Tịnh tông đã được trùng hưng, xứng hợp với căn cơ của tất cả mọi người.

Mặc dù được nhiều thanh danh và vinh dự như thế nhưng thâm tâm của ngài cũng chẳng lấy đó làm điều vinh danh hay phát ý vui mừng. Là một vị đại tăng đã từng trải lâu năm trong đường đạo, nên ngài cũng dư biết rằng sớm, muộn gì mình cũng không sao tránh khỏi được cái cảnh “trâu cột ghét trâu ăn” cùng với các sự tị hiềm, ganh ghét khác, bởi vì càng cao danh vọng thì càng nhiều gian nan, đó là lẽ thường, xưa nay vẫn vậy.

Hơn nữa, lúc nào ngài cũng nhớ nằm lòng bài kệ khi xưa của Bồ tát dạy:

“Tuy là có được chút ít thanh danh nhưng kèm theo đó cũng vẫn còn phải vương mang ít nhiều dư nghiệp” … vì vậy mà tâm của ngài lúc nào cũng vẫn điềm nhiên, lợt lạt đối với lợi danh cùng những lời khen chê phù phiếm, hão huyền.

Là một bậc thạc sư về Phật học, nên hơn ai và hơn bao giờ hết ngài biết rất rõ các lời Phật đã từng huyền ký lại trong kinh điển về tình trạng của người tu trong thời buổi mạt pháp sau này rằng:

– “Sau khi ta (Phật) nhập niết bàn rồi, tám trăm năm sau, hàng xuất gia phần nhiều tham trước danh lợi, giải đãi, buông lung (1), trong trăm ngàn người tu, chỉ có một ít người đắc đạo.

Chín trăm năm sau, trong giới tăng ni, phần nhiều là hạng nô tỳ hạ cấp bỏ tục xuất gia. Một ngàn năm sau, các tỳ kheo nghe nói pháp bất tịnh quán, pháp sổ tức, buồn chán không thích tu tập, trong trăm ngàn người tu chỉ có một ít người được vào chánh định. Từ đó về sau (2), lần lần hàng hàng xuất gia hủy phá giới luật, hoặc uống rượu, hoặc sát sanh, hoặc đem bán đồ vật của Tam bảo, hoặc làm hạnh bất tịnh, nếu có con trai thì cho làm tăng, con gái thì chi làm ni, chỉ còn có một số ít người biết giữ giới hạnh, gắng lo duy trì và hoằng dương chánh giáo.

Khi áo cà sa của chư Tăng ni biến thành sắc trắng, đó là triệu chứng của Phật giáo sắp diệt” … (Kinh Ma Ha Ma Da).

Ghi chú:

(1) Giải đãi, buông lung: Biếng nhác tu hành, không tuân theo lời Phật dạy, hủy phá giới luật trong đạo, chạy theo duyên đời chớ không chịu lo tu thân, tâm, giới huệ.

(2) Tức là 1000 năm sau khi Phật nhập niết bàn (bắt đầu thời kỳ mạt pháp) cho đến bây giờ.

Lại nữa trong kinh “Pháp Diệt Tận” Đức Thế tôn cũng có dạy rằng:

– “Về sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi cõi ngũ trược này, tà đạo nổi lên rất mạnh, lúc ấy có những quyến thuộc của ma trá hình vào làm sa môn để phá rối đạo pháp. Họ ăn mặc y phục như người thế gian, ưa thích áo cà sa ngũ sắc, ăn thịt uống rượu, sát sanh, tham đắm mùi vị, không có từ tâm tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau.

Bấy giờ các vị Bồ tát, Bích Chi, A La Hán vì bản nguyện hộ trì Phật pháp nên hiện thân ra đời làm bậc sa môn, các vị này tu hành tinh tấn, đạo hạnh trang nghiêm, được mọi người kính phục. Các vị ấy có đức thuần hậu, từ ái, nhẫn nhục, ôn hòa, giúp đỡ kẻ già yếu cô cùng, hằng đem kinh tượng khuyên người phụng thờ, đọc tụng, giáo hóa chúng sanh một cách bình đẳng, tu nhiều công đức, không quản ngại chi đến việc tổn mình, lợi người.

Khi có những vị sa môn đạo đức như thế, các Tỳ kheo ma kia ganh ghét, phỉ báng, vu cáo cho những điều xấu, dùng đủ cách lấn áp, xua đuổi, hạ nhục khiến cho các vị sa môn ấy không được ở yên.

Từ đó các ác Tỳ kheo kia càng lộng hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa chiền điêu tàn, hư phế, chỉ lo tích tụ tài sản riêng tư, làm các nghề không hợp pháp trong đạo để sinh sống, đốt phá rừng núi làm tổn hại chúng sanh không có chút từ tâm.

Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện xuất gia làm tăng ni, họ không đạo đức, dâm dục, tham nhiễm, tăng ni, nam nữ sống chung lẫn lộn, Phật pháp suy vi chính là do bọn này.

Lại có kẻ trốn phép vua quan, lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác không học, không tu. Đến kỳ tụng giới (bồ tát) trong mỗi nửa tháng, họ chỉ lơ là gắng gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe. Nếu có giảng thuyết giới luật, họ lược trước, bỏ sau không chịu nói ra cho hết.

Nếu có đọc tụng kinh văn, họ không rành câu, chữ, không tìm hỏi nơi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình là giỏi. Tuy thế, bề ngoài họ cũng làm ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô (tự khoe mình) để hy vọng mọi người cúng dường.

Các Tỳ kheo ma này sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh trải qua nhiều kiếp, khi đền tội xong, họ sẽ sanh vào làm người ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam bảo.

– Trong kinh “Đại Bảo Tích”, Phẩm Tam tụ luật nghi, Phật cũng có bảo cùng với ngài Ma Ha Ca Diếp rằng:

Đời vị lai có Tỳ kheo chúng,

Lòng vội vàng, nhiều giận nhiều hờn.

Bức não người chơn chánh xuất gia,

Đã phát tâm Bồ đề vô thượng.

Đây là hạng đáng kinh, đáng sợ,

Bài bác luôn kinh điển đại thừa.

Không có lòng lãnh thọ, kính tin,

Giáo pháp của Thích Ca Văn Phật.

Họ giận hờn cùng nhau ganh ghét,

Đối với nhau làm những khổ nàn.

Lại rêu rao bày lỗi của nhau,

Tiếng xấu xa truyền lan khắp chỗ.

Đem việc xấu cáo vu người khác,

Lỗi của mình thời thẹn giấu che.

Người hiền lành thế yếu, ít người,

Kẻ tà ác chúng đông thế mạnh.

Thấy như thế biết chánh pháp suy,

Nên người ác thêm nhiều thế lực.

Những đệ tử đáng thương của Phật,

Chính chi cho các Thiện Tỳ kheo.

Phải dắt nhau tìm chỗ, tìm nơi,

Lánh kẻ ác ở nơi an ổn” …

Do vì biết như vậy và bằng vào một thân tâm minh tịnh cùng với sự hiểu biết sâu xa do trí huệ phát sanh sau những năm dài nhập thất, tịnh tu nơi miền thanh vắng, ngài thấy rất rõ ràng rằng:

– Kể từ nay cuộc đời còn lại của ta ắt sẽ phải chịu thêm ít nhiều giông tố, sống gió nữa. Cái câu “Còn chút nghiệp phải mang” mà Phật dạy năm xưa, nay nó đã bắt đầu lố dạng lên, và le lói ở cuối chân trời rồi. (Và quả thật như vậy,sau đó ít lâu ngài bị không biết bao nhiêu là những sự bằm dập, nhục nhằn – khó tả cho hết được – cũng bắt nguồn từ các sự ganh tị, giành giựt uy tín, ảnh hưởng và lợi danh trong hàng môn đệ với nhau mà sanh ra hết).

Trong những khi rỗi rảnh, sau các thời khóa tịnh tu, ngài mới suy nghĩ cũng đem các lời Phật dạy ở trên để kiểm chứng lại hoàn cảnh hiện tại của Phật giáo và chính ngay nơi bản thân mình ở tại đạo tràng này trong mấy năm qua và ngài nhận thấy rằng:

– Kể từ khi tứ chúng vân tập về đây để nương theo mình tu học, mình cũng đã vì họ mà thành lập ra Tu viện và khai mở đạo tràng, hoằng hóa Tịnh tông. Thời gian qua, thanh danh của mình càng nổi bật bao nhiêu, càng được Phật tử quý kính bao nhiêu thì mình càng bị họ ganh ghét, vu cáo và phỉ báng bấy nhiêu, trước mặt mình thì họ dạ dạ, thưa thưa nhưng sau lưng thì họ lại không tiếc những lời rẻ khinh, mạ lỵ.

Ngài tự hỏi:

– Vì sao mà họ lại đối với ta tệ bạc như vậy. Trong khi ta là thầy dạy học cho họ và họ lại là đệ tử của ta?

Và rồi ngài cũng tự hiểu rằng:

– Sở dĩ họ đối với ta như thế là vì nếu có dìm ta xuống được thì họ mới nổi lên – chỉ đơn giản như vậy mà thôi chớ không có điều chi khác nữa.

Rồi ngài hồi tưởng lại khoảng thời gian mấy năm về trước khi ta còn đơn thân an ẩn tu hành, lúc đó ta an nhàn, thong thả và thanh tịnh bấy nhiêu, thì giờ đây ta bị bận rộn, ràng buộc bấy nhiêu. Danh mà chi, lợi làm gì, cung kính quý trọng hay hủy báng, khinh chê, hỏi để rồi có được ích lợi gì cho con đường giải thoát theo như sở nguyện của ta?

Ta đã từ bỏ hết các chức vị, vinh dự mà Giáo hội trao cho ta cùng với các sự cung kính, cúng dường từ nơi các hành Phật tử để về ẩn cư tu niệm tại miền rừng núi này rồi. Đời ta còn lại không lâu, ta nay đâu có cần chi trong vòng trần tục, lợi danh này nữa.

Ngài buồn lắm và ngài muốn bế quan, nhập thất trở lại như xưa qua ý của bài thơ sau:

Giấc hòe tỉnh ngẫm suy cuộc thế,

Bóng nguyệt ngân (1) đổ xế cành ngô.

Bồng tiên cảnh đẹp mơ hồ,

Niềm nhân sự ngẩn ngơ sanh khái cảm.

Tri âm ảnh tuyệt linh cầm đoạn,

Vân tự chung hồi lạc quốc du.

Lắng chuông khuya mà quyết chí tiềm tu,

Tưởng sen nở thiên thu miền Cực lạc.

Vùng ngũ trược cõi trời, người đổi khác,

Chưa vô sinh e dễ lạc mê trần.

Bâng khuâng bể giác non thần.

Liên Du, Vô Nhất.
Thích Thiền Tâm.

Ghi chú:

(1) Bóng nguyệt ngân: Ý nói ánh trăng trắng sáng cũng như màu bạc vậy.

(Để chư Phật tử, đạo hữu rõ thêm về ý nghĩa của bài thơ tuyệt vời này. Bảo Đăng tôi xin lược ý như sau:

– Câu 1và 2 ý nói: Nửa đêm thức giấc, ngồi yên một mình mà ngẫm nghĩ và suy xét lại về những lẽ thịnh, suy, thành, bại, v.v… của cuộc đời này (và của đời mình nữa), miên man chìm trong các sự ngẫm xét đó, đến chừng giật mình lại ngó ra ngoài sân thì ánh trăng bàng bạc đã xế bóng (tức là gần sáng) khỏi ngọn đông rồi (tức là cây ngô đồng).

– Câu 3 và 4 ý nói: Nhìn ra bên ngoài, từ các cây cối, hoa cỏ v.v… dưới ánh trăng khuya thanh vắng (như lòng ta thanh vắng) ảnh hiện ra vẻ đẹp mơ hồ như một cảnh thần tiên, rồi bỗng chợt nghĩ đến tình đời đen bạc, tình đạo (đời nay) chua cay, lòng tự nhiên thấy ngẩn ngơ và bùi ngùi cảm khái cho thế thái nhân tình.

– Câu 5 và 6 ý nói: Tất cả những gì làm bận lòng ta như các người quen, các ước vọng v.v… ta đã và sẽ chặt đứt cùng đập gãy hết. Lắng nghe tiếng chuông chùa từ xa vọng lại mà tưởng chừng như hồn mình đang bay về nơi Cực lạc cõi trời Tây.

– Câu 7 và 8 ý nói: Lắng nghe tiếng chuông khuya trầm bổng, thánh thoát vang lên như thế mà lòng ta càng thêm quyết chí niềm tu (ẩn tu). Mơ tưởng một ngày nào kia sẽ được theo Phật về miền Cực lạc dự vào trong chín phẩm tòa sen vàng.

– Câu 9 và 10 ý nói: Cõi ta bà đầy đủ ngũ trược (ác thế) này, tâm tính con người hung dữ, ác độc (quá) khác hẳn với tâm của các bậc chân tăng, hiền thánh khi xưa – Ta nay là phàm tăng chưa chứng đắc được (vô sinh nhẫn lực) nếu như không sớm nhập thất lại e sẽ dễ bị lạc luôn vào trong chốn mê trần. Càng nghĩ lòng càng thêm thấy bâng khuâng, muốn xả bỏ hết tất cả để nhập vào trong biến giác, non thần nơi Phật quốc mà thôi.

Do vì thấy, nghe, nhận chịu (nhiều nỗi nhục nhằn) và cảm nghĩ như thế cho nên vào cuối năm 1971, ngài mới tuyển chọn ra từ trong các học chủng (chư tăng đang nương ở tu học tại tu viện và trong đạo tràng) được vài vị tương đối “có tâm” hơn một chút, giao cho trách nhiệm trụ trì Hương Nghiêm Tịnh Viện và trông nom Tịnh thất Hương Quang để ngài bế quan, nhập thất tịnh tu trở lại (cho hợp với tâm nguyện của mình).

Kế tiếp sau đó ngài trở vào nhập thất lại tại Tịnh xứ Phương Liên.

B. PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG

Đây là một khu tịnh xứ mà cố Hòa thượng mới kiến lập ra sau này, (vào khoảng giữa năm 1971) cách Hương Quang tịnh thất (là căn thất đầu tiên của ngài tại Phú An) và Hương Nghiêm Tịnh viện chừng 300 thước. Nơi đây trước sau gồm có 4 gian tịnh thất. Sau này còn lại 3 vì có một căn bằng gỗ bị hư mực phải dỡ bỏ.

Căn thất chánh bằng gạch, lợp tôn (thiết) là chỗ của ngài cư ngụ và dùng làm nơi tịnh tu (ngài bế quan và nhập thất vô thời hạn tại đây cho đến khi viên tịch vào năm 1992). Một căn là nơi ở và chỗ tịnh tu của thị giả kiêm trưởng tử của ngài là ni sư Thích nữ Thanh Nguyệt. Căn thứ ba là nơi tịnh tu của một người đệ tử khác (ni sư Thích nữ Bạch Vân. Sau này vào năm 1973 ni sư này trở về lại Bến Tre là chỗ quê nhà vì già cả và đau yếu nên ngài giao tịnh thất này lại cho ni chúng tại tịnh xứ trông nom, nương ở cho đến bây giờ). Căn thứ 4 là nơi ở tu của một đệ tử khác nữa.

Cả bốn căn tịnh thất này đều do một tay ngài kiến lập ra hết.

Sao gọi tên là Phương Liên tịnh xứ?

– PHƯƠNG LIÊN là một tên khác – trong số rất nhiều tên dùng để gọi và danh xưng cho cõi Cực lạc của đức Phật A Di Đà (Phương là phương hướng, xứ là xứ sở, chỗ nơi Liên là bông sen. Hai chữ Phương Liên phối hợp lại có nghĩa là Phương hướng có bông sen. Trong Tịnh tông dùng nó để chỉ cho miền An lạc, nơi mà người tu tịnh độ hàng tuần phát nguyện nương về, còn chữ Tịnh xứ đây có nghĩa là chỗ để tịnh tu theo pháp môn tịnh độ).

Khi cố Hòa thượng lập ra miền tịnh xứ mới này là bởi vì ngài đã thấy và biết trước mọi chuyện sẽ xảy ra về sau nên định ý của ngài là sẽ trụ ở tại nơi đây để nhập thất, tịnh tu luôn cho đến ngày mãn kiếp, vì thế mà ngài mới đặt cho tịnh xứ cái tên PHƯƠNG LIÊN để bày tỏ lên tâm niệm của mình theo ý thơ sau đây:

Mấy điệu sen thanh dìu dặt trổi,

Vang thành ánh ngọc nối liên phương.

(Mấy điệu sen thanh)
Liên Du Vô Nhất Đại Sư.

(Liên Phương hay Phương Liên cũng đều đồng chung một tên, một nghĩa là: An dưỡng quốc Cực lạc giới, Di Đà hải hội mà thôi).

Từ dạo ngài giao quyền quản trị Hương Nghiêm tịnh viện cùng Hương Quang tịnh thất lại cho tăng học chúng tại tu viện trông coi và vào nơi tịnh thất Phương Liên để tịnh tu rồi thì ngài rất ít khi lui tới tu viện nữa, chỉ trừ mỗi tháng hai kỳ bố tác (tụng giới) và những đại lễ quan trọng mà thôi, các Phật sự thông thường thì đã có các đệ tử cùng chư học chúng và tăng ni trong vòng trực thuộc của đạo tràng đứng ra đảm trách.

Ngài cũng hạn chế mọi sự tiếp xúc với bên ngoài và dành hầu hết thời giờ vào trong việc trì niệm, quán tưởng, lễ bái cùng phiên dịch, soạn thuật kinh sách để lưu hậu cho hàng tân học sau này có đầy đủ thêm tài liệu tu tiến. Các ngoại duyên và việc hộ thất cho ngài tại Phương liên tịnh xứ đều do trưởng tử là ni sư Thích nữ Thanh Nguyệt quản nhiệm.

Cũng trong thời gian này ngài bị nhiều thị phi, tai tiếng và khẩu thiệt từ nơi các hàng đệ tử ganh tị (với ni sư trưởng tử là người đã được sự tin yêu, tín cẩn của ngài). Các người đệ tử bất hảo này đã liên kết với nhau, phao vu các tin tức xấu do họ tự đặt ra (bịa đặt) và loan truyền đến các hàng thiện tín để tìm cách phá hủy danh tiếng, uy tín của ngài (cho đã ghét và hả giận). Những sự việc (vu cáo) này nhiều không thể nói hết được. Tuy thế nhưng cũng vẫn còn có rất nhiều các Phật tử, đệ tử khác hiểu biết và tín nhiệm nơi cố Hòa thượng nên họ không vì đó mà tin theo, trái lại họ càng thêm kính quý, mến thương Hòa thượng nhiều hơn nữa qua đức tính từ ái, khoan dung, nhẫn nhịn, đức độ cùng với sự chí tâm tu niệm của ngài.

(Viết đến đây, Bảo Đăng tôi chợt thấy lòng bùi ngùi thương cảm riêng cho cố Hòa thượng, ni sư Thanh Nguyệt và chung cho các bậc đức hạnh, chân tăng trong thời buổi mạt pháp này. Trong hai lần về lại Việt Nam, Bảo Đăng tôi đã gặp, tiếp xúc và phỏng vấn qua một số người đã hiểu biết nhiều về cố Hòa thượng mỗi khi nhắc đến sự quyết tâm tu học để cầu giải thoát của ngài thì ai cũng lắc đầu kính phụ, và khi kể lại các sự việc bị phao vu, bị ám hại, cùng sự nhẫn nhục, chịu đựng của ngài (trong giai đoạn này) cho Bảo Đăng nghe thì hầu hết đều rớm lệ, ngậm ngùi, xót xa cho cố Hòa thượng rất nhiều).

Là một người phật tử học Phật và trực tiếp đứng ra đảm trách tất cả các việc Phật sự tại chùa Pháp Hoa Tucson, Arizona gần suốt 10 năm qua, trong những lần Đại Đức Bổn sư Thích Hải Quang giảng luận kinh pháp, Bảo Đăngcó được nghe và nhớ một thời kinh dạy về sự nhẫn nhục mà thầy đã tuyên giảng lại như sau:

… Bấy giờ ngài Đại Mục Kiền Liên suy nghĩ rằng:

– Đức Thế Tôn rất hy hữu, thành tựu đại bi …tu tập đầy đủ Phật pháp vô sanh, vô diệt mà khai thị, giác ngộ cho các chúng sanh.

Đức Phật biết chỗ suy nghĩ của ngài Đại Mục Kiền Liên nên bảo rằng:

– Đúng như vậy, này Đại Mục Kiền Liên, chư Phật thành tựu tâm đại bi, nếu hàng đệ tử của ta nghe nói đầy đủ nghĩa đại bi ấy chắc tâm sẽ mê loạn không còn vui thích gì nữa. Này Đại Mục Kiền, đừng nói đến đại bi của chư Như Lai, nếu ta tự thuật lại đại bi lúc ta còn hành đạo Bồ tát, ông nghe xong cũng sẽ mê muội luôn, không còn vui thích chi hết.

Ngài Đại Mục Kiền Liên bạch rằng:

– Lành thay đức Thế tôn, nguyện xin nói ra chút ít phần đại bi thuở xưa khi Phật còn hành Bồ tát đạo.

Đức Thế Tôn bảo:

– Nay ông lắng nghe, khéo nhắc bảo thọ trì, ta sẽ vì ông mà nói ra chút ít … Này Đại Mục Kiền Liên, thuở trước ta thật hành sâu về hạnh nhẫn nhục như thế nào?

– Các chúng sanh ác khẩu, mắng nhiếc chưởi rủa và dùng dao gậy, ngói đá hại thân ta, lúc ấy ta chẳng nên giận hờn, chẳng nên hối hận. Ta phải tự điều phục tâm mình như thế này: Các chúng sanh ấy vì ngu si chẳng biết nên sanh khởi ra nghiệp ngu si, nếu đối với họ mà ta giận hờn lại thì ta nào có khác chi họ, làm sao nhập đạo cho được, lòng ta phải giữ như mặt đất, bình đẳng hứng chịu các thứ tốt xấu, sạch nhơ.

Quá khứ xa xưa có người ngoại đạo tên là Nhẫn lực thọ pháp tu như vầy: Với các chúng sanh tôi chẳng sanh lòng hờn giận.

Bấy giờ có ma tên Ác ý nghĩ rằng nay ta sẽ đến chỗ tiên nhơn đó phá hoại pháp nhẫn nhục để khiến cho y sanh lòng sân hận mà hư tâm nhẫn nhục ấy đi. Ma liền sai ngàn người giỏi mắng chửi nhất, đến vây quanh tiên nhơn ấy buông lời ác chửi mắng, lúc tiên nhơn ấy đi cũng mắng, lúc vào trong xóm khất thực cũng mắng, lúc đang ăn cũng mắng, ăn xong cũng mắng, đứng dậy cũng mắng, ra khỏi xóm cũng mắng, về đến chỗ cư ngụ cũng mắng, lúc ngồi, lúc nằm, lúc đi kinh hành cũng mắng, cho đến cả thở ra, thở vào cũng mắng, luôn luôn theo mắng chửi như thế không ngừng nghỉ.

Ngàn người do ác ma sai khiến ấy mắng chưởi tiên nhơn suốt tám vạn bốn ngàn năm (84.000) như vậy, còn riêng ma Ác ý thì mỗi khi tiên nhơn đi vào trong thôn xóm, nó lấy phẩn, tiểu cùng các thứ dơ bẩn khác đổ lên đầu, lên y, lên bát, lên thân của tiên nhơn.

Dầu bị mắng chưởi, nhục nhã đến 84.000 năm như vậy mà tiên nhơn Nhẫn lực chẳng hề sanh lòng hờn giận, hay khởi tâm muốn bỏ hạnh tu, chẳng hỏi tôi có lỗi gì và cũng chẳng để mắt nhìn ngó kẻ ác.

Sau 84.000 năm vây quanh mắng chửi như thế, ngàn người giỏi mắng chửi ấy biết chẳng thể nào phá hoại được tiên nhơn, nên sanh ra lòng tin thanh tịnh, họ đối trước tiên nhơn sám hối xin trừ tội và phát nguyện rằng:

– Ngài tu tập như vậy cầu được pháp gì, chúng tôi cũng nguyện được như pháp ấy.

Rồi họ cung kính cúng dường, tôn trọng, khen tặng tiên nhơn. Dầu được như vậy nhưng Nhẫn lực tiên nhơn cũng chẳng vì đó mà sanh lòng tham ái.

Này Đại Mục Kiền Liên, tiên nhơn Nhẫn lực thuở xưa chính là thân ta. Thuở ấy ta tu pháp nhẫn nhục suốt 84.000 năm như vậy mà lòng ta vẫn chẳng đổi khác (Đại Bảo Tích kinh – Đại bi phẩm).

– (Sau 84.000 năm như vậy thì ngài thành tựu được nhẫn nhục Ba la mật (1) – Tức là vào được ngôi vị đệ tam Phát quang địa trong hàng Thập địa Bồ tát).

Ghi chú:

(1) Nhẫn nhục Ba la mật. Có 3 loại:

– Phục nhẫn: Đây là đức nhẫn của các bậc bồ tát trong các giai vị: Thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng.

– Tín nhẫn: Đây là đức nhẫn của các bậc bồ tát từ sơ địa đến Tam địa. Thuận nhẫn: Đức nhẫn này của các bậc bồ tát từ Tứ địa đến lục địa. Vô sanh nhẫn: Đức nhẫn này của các bậc bồ tát từ Thất địa đến Cửu địa.

– Tịch diệt nhẫn: Đức nhẫn này chỉ riêng cho các giai vị Bồ tát từ Thập địa tới bậc Diệu giác (Phật) mà thôi.

Trở lại việc của cố Hòa thượng bị nhiều thị phi và khẩu thiệt trong những giai đoạn (đầu) sau cùng của đời ngài thì hầu hết đều do nơi các sự ganh tị, ghét thương, tranh giành uy tín, ảnh hưởng v.v.. từ các đệ từ mà gây ra cả, làm cho tổn thương đến ngài cũng không phải ít, nhưng ngài vẫn kham nhẫn và vượt qua được hết bởi vì ngài là một bậc chân thật tu hành, thấu rõ được hết các lẽ nhơn quả xưa nay qua lời Phật dạy vì thế nên tâm ngài lúc nào cũng an nhiên như ngọn núi cao luôn đứng vững vàng giữa các cơn phong ba, bão tố. Vả lại trong bộ luận “Bảo Vương Tam muội” cũng có dạy rằng:

… Ở đời đừng cầu không khó khăn, vì nếu không bị khó khăn thì kiêu sa nổi dậy

… Sự nghiệp đừng mong không bị chông gai vì không bị chông gai thì chí nguyện chẳng kiên cường

… Oan ức không cần bày tỏ, biện bạch, vì bày tỏ, biện bạch thì hèn nhát mà trả thù thì oán đối kéo dài…

Bởi thế, Đức Như lai thiết lập chánh pháp, lấy bệnh khổ làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm thành công, lấy gai gốc làm giải thoát, lấy ma quân làm bạn đạo, lấy khó khăn làm sự tác thành, lấy bạn tệ bạc làm người giúp đỡ, lấy kẻ chống nghịch làm người giao du, lấy sự thi ân như đôi dép bỏ, lấy xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm đà tiến thủ. Thế nên ở trong chướng ngại mà vượt qua tất cả.

Đức Thê tôn được giác ngộ chính trong các sự chướng ngại. Từ nơi Ương quật Ma la (tướng cướp Vô não) hành hung. Đề Bà Đạt Đa khuấy phá mà ngài đều giáo hóa cho thành đạo tất cả. Như vậy thì đó không phải là sự tác nghịch mà chính là sự tác thành, không phải là sự quấy phá mà chính là sự giúp đỡ cho ta vậy.

Ngày nay những người học đạo vì không chịu dấn mình vào các sự trở ngại nên khi bị trở ngại đưa đến thì không thể nào đối phó được. Chánh pháp chí thượng vì vậy mà mất cả, thật là đáng tiếc, đáng buồn biết bao!

Nhờ biết được như vậy và cũng nhờ đến lời Phật dạy khi xưa (trong giấc mộng) là:

Liên Hương thơm sực nức,

Còn chút nghiệp phải mang

nên ngài cũng biết rằng đây là chút ít dư nghiệp của mình còn sót lại (trong tiền kiếp) vì thế mà hơn bao giờ hết tâm ngài vẫn cảm thấy tự tại, an vui, mặc cho tình đời đổi thay dâu bể.

Ngài có một bài thơ tỏ ý mình như sau:

Bao nhiêu tuổi, biết bấy nhiêu nơi,

Dở dở, hay hay ở với đời.

Nỡ giận hờn chi cho mệt dạ,

Tránh tranh đua miệng đỡ hao hơi.

Thế nhân suy tính ngàn muôn lối,

Nhưng tính sao hơn được với Trời.

Chán biết nhân tình là tệ bạc,

Cũng trò, cũng chuyện cũng cười chơi!

Vô Nhất
Thích Thiền Tâm

Qua bài thơ này ta thấy mến thương và kính phục ngài rất nhiều. Nguyện cầu cho các bậc hiền tăng khác trong thời buổi mạt đạo này lúc nào cũng giữ được tâm mình an nhiên như cố hòa thượng vậy.

Tuy thế nhưng cũng có đôi lúc nào đó ngài nghĩ lại mà cảm thấy buồn cho phần số của mình, gây tạo chi cho nhiều túc nghiệp tiền khiên, nên hiện tại phải bị lãnh chịu không biết bao nhiêu là phong ba vùi dập gần suốt khoảng đời qua mà chợt thất chạnh lòng, qua ý thơ sau:

Sóng nghiệp xa đưa đến Đại Ninh,

Thị phi, thương ghét biết bao tình.

Lắm khi nhục nhã, lòng câm nín,

U uất khổ sầu cũng lặng thinh.

Thất nhỏ đêm ngày chuyên lễ niệm,

Sớm mõ, chiều chuông tiếng kệ kinh.

Nguyền mong Tam thánh trời Tây đến,

Đài kim rực chiếu ánh quang minh.

Và qua ý của đoạn thơ sau:

Ẩn tu nghĩ lại quảng đời nay,

Bao lớp gian truân nổi đọa đày.

Ẩn nhẫn trả xong tròn nghiệp trước,

Dấu hồng chuyện cũ tuyết mờ bay.

Vô Nhất
(Ẩn tu ngẫu vịnh)

Trong thời gian bế quan nhập thất lần sau cùng này tại Phương Liên tịnh xứ, mặc dù ròng rặc chuyên tu, nhưng với bi tâm độ sanh và nghĩ thương đến cho các hàng hậu tấn về sau trên đường tu học khó khăn trong thời buổi nhiễu nhương này, nên ngài cũng vẫn cố gắng dành dụm thời giờ rỗi rảnh để phiên dịch và soạn thuật thêm ít nhiều kinh sách lưu hậu.

Trong 24 năm sau chót của đời ngài (từ 1968-1992) tại đạo tràng Đại Ninh, Hương Quang tịnh thất, Hương Nghiêm tịnh viện và Phương Liên tịnh xứ ngài đã hoàn thành xong được việc phiên dịch và trước tác các bộ kinh sách sau đây:

Các quyển:

a. PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI KINH.

Đây là một quyển kinh dạy về Mật chú, một pháp môn mà ngài hoằng hóa song hành cùng với môn Tịnh Độ, dành cho các hành nhơn có căn Mật Tông tu học.

Quyển sách này đã được ban hoằng pháp của chùa Pháp Hoa tại Tucson Arizona tái bản và ấn tống trước sau ba lần trên 6.000 quyển cả thảy (và thêm một lần in tại Việt Nam vào năm 1993 do thân phụ cùng quyến thuộc của Bảo Đăng phát tâm ấn tống 2.000 quyển nữa) – cộng thêm vào trong quyển kinh có các phần chú thích và soạn pháp nghi tu (cho thần chú này) do cháu ruột của ngài Đại đức bổn sư, Thích Hải Quang phụ lục).

b. ĐẠI NHỰT KINH (giải thích) gồm 3 quyển Hạ-Trung-Thượng dài trên 700 trang. (Bộ kinh này đến nay vẫn chưa hội đủ được cơ duyên để ấn tống và lưu hành).Đây là hai quyển kinh dạy về Mật Tông (Để phối hợp với phương cách tu Mật Tịnh của ngài – sẽ nói ở phần kế tiếp) trong thời gian này.

c. MẤY DIỆU SEN THANH (Tức Tịnh độ thánh hiền lục) gồm có 07 tập, dài gần 1.000 trang. Đây là một quyển sách hiển rõ về hiện chứng (lượng) vãng sanh của pháp môn Tịnh Độ. Bằng vào một lối hành văn nhẹ nhàng, cực kỳ rõ ràng và trong sáng, ngài đã làm cho các hành nhơn tu theo Tịnh tông thảy đều đọc hiểu, thấu suốt được tôn chỉ của pháp môn và phát tâm niệm Phật bất thối chuyển.

d. Chú giải 108 bài NIỆM PHẬT KỆ của Triệt Ngộ Đại sư (Liên Tông thập nhị tổ) với các phần chứng minh về sự, ly viên dung đến một mức tuyệt diệu mà chỉ có được ở nơi cố Hòa Thượng (mới diễn đạt nổi như thế mà thôi).

e. LIÊN TÔNG THẬP TAM TỔ (13 vị tổ sư của Tịnh Tông). Đây là một quyển sách (ngoài) phần lược lại tiểu sử của chư tổ ra còn được phụ lục thêm vào một ít phần di pháp của ngài đã tuyên dạy, dài trên 300 trang, qua quyển sách này cố Hòa Thượng đã hiển rõ ra các yếu điểm quan trọng về Thánh ngôn lượng, lý trí lượng và hiện chứng lượng của pháp môn Tịnh độ, khiến cho các Phật tử tu học theo đây càng được tăng thêm niềm tin sâu chắc vào pháp môn trì niệm của mình.

Từ trước đến nay, qua các bộ kinh sách dạy về Tịnh Độ đã được ngài phiên dịch, trước tác, giảng giải và hoằng dương, pháp môn Tịnh Độ của Phật giáo Việt Nam đã được trùng hưng và phát triển đến mức cực điểm. Số lượng người quy hướng theo Tịnh tông đông không kể xiết. Các bậc tôn đức tăng già Việt Nam và chư Phật tử thảy đều tán thán công lao ấy và tôn ngài lên ngôi vị:

VIỆT NAM PHẬT GIÁO, MẬT TỊNH TÔN SƯ.
LIÊN DU – VÔ NHẤT ĐẠI SƯ
THÍCH THIỀN TÂM – HÒA THƯỢNG ĐẠI NINH

Và xem ngài như là một đại sư có công hoằng dương Tịnh Độ lừng lẫy vào bậc nhất của Phật giáo Việt Nam đương kim vậy.

Ngoài ra, ngài còn phiên dịch và soạn thuật thêm một số kinh sách khác nữa như sau:

– TAM BẢO CẢM ỨNG YẾU LƯỢC LỤC

– NHƠN QUẢ LUÂN HỒI TẠP LỤC KÝ

– TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA (soạn thuật)

và còn nhiều nữa mà Bảo Đăng tôi không biết hết được.


PHẦN VII:
VÔ NHẤT ĐẠI SƯ ĐẠI NINH ĐẠO TRÀNG
MẬT TỊNH TÔNG CHỦ, KHAI SƠN TỔ SƯ

Trong phần này, Bảo Đăng tôi xin hiển ra một vài sơ lược về công nghiệp Tịnh Độ và pháp môn tu tập sau cùng của cuộc đời cố Hòa Thượng qua 24 năm hoằng đạo tại đạo tràng Đại Ninh mà ngài đã tự thân dạy dỗ, dẫn dắt và lưu truyền lại về sau cho các hàng Phật tử nói chung và riêng cho các môn đồ pháp quyến tu tập.

Trước hết xin nói rõ về pháp hiệu VÔ NHẤT của ngài, một pháp hiệu mà từ nơi đầu quyển sách cho đến đây, quý đạo hữu thỉnh thoảng vẫn đọc và thấy được danh xưng đến.

Vì sao mà ngài lại có pháp hiệu là VÔ NHẤT và tên ấy có ý nghĩa gì?

Xin thay thế cho ni sư trưởng tử Thích nữ Thanh Nguyệt (Việt Nam) và cháu ruột của ngài, Đại Đức viên chủ, Bổn sư Thích Hải Quang (hiện đang bế quan tịnh tu vô thời hạn như chú của mình tại Hương Vân tịnh thất nơi miền Trung Mỹ) kế nữa là nương nơi lời chủ giải của cố Hòa Thượng trong di cảo, Bảo Đăng tôi xin được giải thích một cách đại lược như sau:

Từ khi xuất gia vào năm 1945 cho đến lúc viên tịch vào năm 1992. Thời gian 48 năm dài ấy, như tứ chúng đều biết là ngài đã đóng góp rất nhiều công lao to lớn cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam mà hầu hết các bạn tu cùng thời và đồng song của ngài ít có một ai sánh kịp, nhất là về công nghiệp hoằng dương Tịnh Độ.

Ấy vậy mà tâm ngài lúc nào cũng vẫn bình thản và không bao giờ nghĩ đến các việc Phật sự của mình làm để mà vinh hạnh cả. Đôi khi có ai dâng lên ngài lời khen tặng thì ngài chỉ nở nụ cười, hoặc làm thinh hoặc nói là tôi làm sao mà có được những sự xứng đáng như vậy.

Là một bậc đại sư hoằng dương Tịnh Độ, đã có thực hành đầy đủ hết các phần sự, lý của pháp môn qua mấy mươi năm dài bế quan, nhập thất, khắc khổ chuyên tu như thế nhưng bao giờ ngài cũng vẫn khiêm hạ khi được lời khen tặng mà nói rằng:

– Mấy mươi năm nay, ngày luống qua ngày, nhiều khi nghĩ lại cảm thấy thẹn thùng khi tự xét mình miệng tuy niệm Phật mà lòng không nhiễm đạo …

Lại nữa trong số các bạn tu tập đồng thời của ngài ai cũng đều nhận xét rằng Thầy Thiền Tâm là một người có văn tài lỗi lạc và một cách hành văn độc đáo, rành rõ có một không hai, chúng tôi không sao bì kịp… ấy vậy mà ngài vẫn nói là rất hổ thẹn khi thấy văn từ của mình xét lại cũng giống như:

– Nhóm một đống chữ, chẳng có chỗ nào để đáng được xem đến hết.

Hoặc là:

– Những lời khen tặng ấy tôi thật không dám nhận lãnh bởi vì nó quá đáng, giống như đưa ngọn cỏ qua khỏi lầu cao, nói mắt cá sáng hơn châu ngọc… làm cho tôi cảm thấy lòng mình càng thêm thẹn hổ mà thôi.

– Những văn từ tôi viết ra còn ấu trĩ tựa như một người học trò dâng nạp bài thi lên ban giám khảo vậy, v.v…

Trên đây là một vài nét đặc thù (mà khó ai có được) của ngài. Với lại khi nghe ai khen tặng về các pháp sự của mình làm ngài đều khiêm tốn mà nói rằng:

– Mấy mươi năm qua, tuy mang tiếng tu hành, hoằng dương Phật pháp nhưng xét cho kỹ lại thì thấy không có nhất một việc nào ra hồn hết (vô nhất sự), ngày tháng trôi qua, già suy đến rồi mà chỉ luống lạm dùng của đàn na, tín thí thôi.

Rồi ngài cười mà nói tiếp:

Đúng là cảnh “Nhất sự vô thành, thân tiệm lão”. Chỉ nội có một cái việc tu đức độ mình không thôi mà tôi vẫn còn chưa làm được thay, há dám nói chi đến việc độ người. Bởi vì Phật dạy rằng:

– Tự độ, độ tha – Tự giác, giác tha – Phật tự độ mình trước, phải tự giác mình trước rồi mới nói đến việc độ cho người, giác cho người. Chữ TỰ (tức là đây) luôn luôn đi trước chữ THA (tức là kia) chớ chữ THA không bao giờ đi trước chữ TỰ được cả.

Nếu chưa làm được như thế mà nói rằng nay tôi sẽ ra hoằng dương đại pháp, quảng độ chúng sanh thì thành ra mang cái án TRỘM DANH, KHI ĐỜI (tức là ăn trộm cái danh tiếng tốt mang vào mình để lấy “le” trong khi mình không có đủ tài đức xứng hợp và như vậy thì cũng giống như khinh rẻ người đời ai cũng ngu si, không biết nhận xét cả, hoặc là tự mãn mà nói rằng không có ai bằng ta hết).

Riêng cá nhân tôi, bình tâm mà xét lại quả thiệt thấy mình từ trước đến nay chưa có làm nên được một sự việc gì ích lợi cho đạo pháp hết cả.

Từ đó (khoảng năm 1972) ngài mới chọn pháp hiệu VÔ NHẤT để bày tỏ ý (khiêm hạ) của mình thay thế cho pháp hiệu LIÊN DU trước kia và dùng pháp hiệu mới này mãi cho đến ngày viên tịch (20 năm cả thảy).

Còn hai chữ ĐẠI SƯ đây là chỉ cho một vị tăng chuyên hoằng dương về Tịnh độ (cũng như THIỀN SƯ là vị tăng chuyên hoằng dương về thiền tông LUẬT SƯ là vị tăng chuyên hoằng dương về giới luật – LUẬN SƯ là vị tăng chuyên hoằng dương về luận tông v.v..).

Vì xét thấy cố Hòa Thượng quả thật là một vị đại tăng có công hoằng hóa Tịnh tông nên chư tôn đức tăng già trong giáo hội Phật giáo Việt Nam truy tặng cho ngài (tước hiệu) là một bậc ĐẠI SƯ.

Hai chữ ĐẠI SƯ này phối hợp cùng với pháp hiệu (mới) VÔ NHẤT của ngài thành ra là:

VÔ NHẤT ĐẠI SƯ
THÍCH THỀN TÂM
HÒA THƯỢNG ĐẠI NINH

(Đến đây Bảo Đăng tôi đã giải thích xong về pháp hiệu Vô Nhất của Đại sư rồi).

Kế tiếp sau đây xin hiển ra thêm một ít phần về pháp môn tu tập mà ngài đã lưu hậu lại cho các hàng môn đệ tu theo sau này.

Đại sư vẫn thường dạy các môn đồ rằng:

– Môn Tịnh độ là pháp tu rất nhiệm mầu, viên đốn (trọn đủ) nhất. Sao gọi là viên đốn? – Một pháp gồm đủ các pháp nên gọi là viên, hiện đời tu, hiện đời được giải thoát nên gọi là đốn.

Sở dĩ pháp môn này được danh xưng (viên đốn) như thế là vì từ nơi hàng phàm phu thấp kém tạo đủ năm tội nghịch cho đến các bậc đẳng giác Bồ tát như VĂN THÙ, PHỔ HIỀN và chư Bồ tát trong Hoa Nghiêm Hải hội cũng được dự vào và không ai có thể ra ngoài pháp ấy.

Đây là con đường thẳng, tắt nhất để mau đi đến quả PHẬT cho khắp cả thượng THÁNH hạ PHÀM. Việc ấy đâu phải là không có nơi y cứ đâu. Như kinh HOA NGHIÊM là một bộ kinh đại thừa phương quảng, trong phẩm NHẬP PHÁP GIỚI sau cùng, ngài THIỆN TÀI đồng tử (Bồ tát) vâng theo lời dạy của đức VĂN THÙ SƯ LỢI đại pháp vương tử đi tham phỏng đạo pháp nơi các bậc trí thức.

Ban sơ ngài THIỆN TÀI đi đến ra mắt ngài ĐỨC VÂN Bồ tát, được nghe dạy về pháp môn niệm PHẬT liền chứng được quả vị sơ trụ, kế đó lần lượt tham học mọi nơi thảy đều được chứng đắc cả, cho đến vị đại thiện trí thức thứ 53 sau cùng là ngài PHỔ HIỀN Đại Bồ tát, được nghe Bồ tát khuyên ngài THIỆN TÀI cùng tất cả chư hải chúng Bồ tát trong hội HOA NGHIÊM phát 10 nguyện vương rồi đem công đức ấy hồi hướng về cõi Tây phương Cực Lạc để cho mau tròn quả Vô Thượng Bồ Đề.

Trong kinh “QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ” nói:

– Những chúng sanh tạo đủ 5 tội nghịch, 10 điều ác… làm đủ các việc chẳng lành đáng bị đọa vào đại địa ngục, trải qua nhiều kiếp thọ khổ, nếu như gặp được thiện trí thức khuyên bảo niệm Phật liền vâng lời niệm đủ mười câu, tức thì tiêu trừ tội chướng được vãng sanh.

Bao nhiêu đó cũng đủ thấy pháp môn Tịnh Độ cực kỳ quảng đại nhiếp tất cả chúng sanh không bỏ sót một ai hết.

Lại nữa trong kinh VĂN THÙ BÁT NHÃ, Phật có dạy rằng:

– “Có một pháp môn tên là “Nhứt hạnh tam muội”, người tu theo tam muội này cũng mau được đạo Vô thượng Bồ đề.

Văn Thù Sư Lợi Bồ tát bạch Phật:

– Bạch đức Thế tôn, thế nào gọi là Nhứt hạnh tam muội?

Phật phán dạy:

– Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào muốn vào Nhứt hạnh tam muội này, thì kẻ ấy phải ở nơi rảnh rang, vắng vẻ, bỏ các ý tưởng tán loạn, tâm chẳng nắm giữ tướng mạo (1), buộc chặc tâm tưởng vào nơi một Đức Phật, rồi ngồi ngay thẳng và quay mặt về phương hướng của đức Phật ấy ngự mà chuyên xưng danh hiệu của Đức Phật ấy. Có thể ở nơi một Đức Phật mà niệm niệm nối nhau không gián đoạn thì liền ngay trong niệm ấy sẽ thấy được chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai.

Tại sao?

– Vì niệm một Đức Phật công đức vô lượng, vô biên cùng với niệm vô lượng chư Phật công đức cũng bằng nhau không khác, bất khả tư nghị, Phật pháp bình đẳng không phân biệt”.

Ghi chú:

(1) Chẳng nắm giữ tướng mạo đây: là chẳng nắm giữ ngủ ấm, lục nhập, 12 xứ, 18 giới của phàm phu chớ không phải nói là chẳng nắm giữ tướng mạo của Phật. Bởi vì nếu chưa chứng đắc mà xả bỏ Phật, Bồ tát và các pháp lành thì lấy chi để mà tu. Trong kinh phật dạy:

– Trong khi chưa chứng diệu Bồ đề, thời phải tu hành tất cả hạnh.

Ở các thời pháp khác, Đại sư cũng thường khuyến nhắc rằng:

– Pháp tam thiền chẳng phải là cơ duyên của các người thời nay nói riêng và chung cho tất cả chúng sanh trong thời buổi đấu tranh kiên cố này. Giả sử như dầu cho có học hành đi nữa thì cũng chỉ là sự hiểu biết trên văn từ mà thôi chớ khó tỏ suốt tâm tánh như các bậc lợi căn trong thời chánh pháp, tượng pháp trước kia được.

(Đây là một ít phần trong những thời giảng về Tịnh độ của ngài mà Bảo Đăng tôi trích lục ra để cho các liên hữu nhơn đây mà phát tâm tinh tấn niệm Phật nhiều hơn nữa).

Đại sư vì thấy có một ít quý vị tu Thiền bài bác pháp môn Tịnh độ qua nhiều điểm … ngài e rằng các Phật tử tu Tịnh độ sơ cơ bối rối, hoang mang rồi lâm vào trong cảnh phân biệt đây, kia, cao, thấp mà uổng phí đi thời giờ và công lao tu niệm nên ngài có bài thơ khai thị như sau:

Chốn cũ chân như lắm nẻo về,

Đường tuy khác lối vẫn đồng quê.

Trong THIỀN có TỊNH trời Lư lảnh,

Nơi TỊNH gồm THIỀN nước ĐỘNG KHÊ

Tiến bước nguồn tâm ngồi tuyệt sáng,

Quay nhìn bể tục ngát hương thê.

Bao giờ học kẻ cười hoa được,

Đem ý sen lành rải bến mê.

VÔ NHẤT
THÍCH THIỀN TÂM

Bảo Đăng xin lược ý của bài thơ này cho các liên hữu (bạn tu Tịnh Độ) hiểu rõ về lời khai thị của cố Hòa Thượng như sau:

Câu 1:

Chốn cũ chân như lắm nẻo về,

Là ý nói: Có rất nhiều pháp môn tu tập mà Phật đã dạy và để lại cho chúng sanh hành trì trên con đường về nơi chân như, giải thoát.

Câu 2:

Đường tuy khác lối vẫn đồng quê.

Là ý nói: Tuy rằng có người tu theo pháp môn này, có người tu theo pháp môn kia chẳng hạn như kẻ tu Thiền, người tu Tịnh nhưng thật ra cũng chỉ vì để đạt được một mục đích cứu cánh duy nhất là quy về nơi giải thoát, ra khỏi vòng sanh tử mà thôi.

Câu 3:

Trong THIỀN có TỊNH trời Lư lảnh,

Là ý nói: Người tu Thiền cũng muốn đạt được Tịnh tâm, vong tình, quên cảnh thì người tu Tịnh, nếu nhiếp hết sáu căn lại mà trì niệm mãi một câu A DI ĐÀ Phật thì cũng đạt vào trong chỗ Tĩnh tâm mà thôi. Hai cái “Tĩnh tâm” này (của Thiền và Tịnh) nào có khác nhau đâu! cho nên nói trong Thiền có Tịnh, trong Tịnh có Thiền là như vậy.

Còn ba chữ “trời Lư lảnh” đây là chỉ cho nơi hoằng đạo của Liên Tông sơ tổ HUỆ VIỄN đại sư (Bạch Liên đạo tràng) ở tại Đông lâm tự nơi Lư sơn (Lư lảnh tức là núi Lư sơn).

Câu 4:

Nơi TỊNH gồm THIỀN nước ĐỘNG KHÊ

Là ý nói: 4 chữ đầu “nơi TỊNH gồm THIỀN” thì ý cũng giống như mới vừa giải ở câu thứ ba trên – 3 chữ “nước ĐỘNG KHÊ” chỉ cho nơi hoằng đạo của đức lục tổ Huệ Năng (Tào Khê).

Câu 5:

Tiến bước nguồn tâm ngồi tuyệt sáng,

Là ý nói: Dầu cho tu Thiền hay tu Tịnh gì gì đi nữa thì ai ai cũng mong sao cho liễu đạt được chơn tâm. Cái chơn tâm tịch mịch, sáng rỡ, chiếu minh ấy (như trong kinh Lăng Nghiêm dạy), đâu có phân biệt đây, kia (như mình nghĩ vậy). Câu này ý nói là tu đã được đạt đạo, giải thoát rồi.

Câu 6:

Quay nhìn bể tục ngát hương thê.

Là ý nói: Đến chừng đó (được thành đạo rồi), quay đầu lại nhìn chúng sanh nơi cõi tục, còn chìm đắm trong biển khổ tử, sanh mà thương xót, phát lời thề nguyền cứu độ.

Câu 7 và 8:

Bao giờ học kẻ cười hoa được,

Đem ý sen lành rải bến mê.

Kẻ cười hoa đây là ngài MA HA CA DIẾP.

Sơ lược điển tích: Trong kinh “Đại Phạm Thiên Vương vấn Phật quyết nghi” có đoạn kinh sau: Lúc đó đức Thế tôn cầm hoa sen “Kim sắc ba la” của trời Phạm vương cúng dường trên tay đưa ra hiểu thị (ý nghĩa) trước đại chúng. Tất cả đều ngơ ngẩn, chỉ có ngài Kim sắc đầu đà là Ma ha Ca Diếp hiểu được mật ý của Phật nên mỉm cười. Phật biết ngài Ca Diếp đã Khế hợp được ý nghĩa nên nói:

– Ta có “Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn” nay truyền lại cho Ma ha Ca Diếp sau đó Phật truyền y bát cho ngài Đại Ca Diếp làm sơ tổ (Thiền tông). Câu này ý nói chừng nào được như ngài Ma Ha Ca Diếp kia thì mới nói ta là thế này, thế nọ, còn bằng không (bạt địa phàm phu, chưa chứng đắc được chút chí) thì càng nói nhiều càng thêm mỗi vọng (ngữ) mà thôi.

Câu 8:

Ý ngài nói nên theo pháp môn Tịnh độ (sen lành) mới giác được mình và giác được mọi người (ra khỏi bến mê).

Từ năm 1970 về sau, vì nhận thấy các người tu hành đời nay phần đông đều bị ma nạn khuấy phá, vả lại vì đã qua nhiều kinh nghiệm bản thân sau hơn mấy mươi năm dài tu tập nên cố Hòa Thượng mới bắt đầu khởi xướng, khuyến khích và dẫn dắt các Phật tử trì niệm thêm thần chú để trợ lực cho được vững vàng hơn trên bước đường tu tập.

Kể từ đó trở đi, ngài riêng lập ra một phương pháp tu mới gọi là: MẬT TỊNH SONG TU – tông chỉ của pháp môn này là vừa niệm Phật và vừa kiêm thêm trì chú (Tịnh độ của Mật giáo) mà trong đó lấy niệm Phật làm chánh, trì chú làm phụ.

Có người hỏi:

– Bạch Hòa Thượng trong pháp tu này phải phân biệt như thế nào?

Ngài đáp:

– “Phải phân biệt cho rõ ràng giữa CHỦ (chánh) và TRỢ (phụ). Pháp môn này lấy niệm Phật làm chủ và trì chú làm trợ. Phải nên nhớ như vậy, nếu lơ là xem đồng như nhau thì CHỦ cũng không thành CHỦ nữa – điều này quan trọng, phải nhớ cho kỹ”.

Phương pháp Mật Tịnh song tu này được khai nguyên tại Phương Liên tịnh xứ và hoằng truyền rộng rãi từ hơn thập niên qua, đến nay có rất nhiều người nương theo tu tập và thu được đại lợi ích. Tại Việt Nam thì pháp môn này lấy nơi trụ xứ của ngài làm đạo tràng chánh vì thế nên gọi Phương Liên tịnh xứ là Mật Tịnh đạo tràng và cố Hòa Thượng được các đệ tử, đồ tôn trong dòng pháp tôn ngài lên ngôi vị TÔNG CHỦ của pháp môn Mật Tịnh song tu này.

Và đây cũng là phần giải thích của 8 chữ:

“PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ – MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG” tại Phú An, Đại Ninh vậy.

Khoảng năm 1983, ngài lại soạn ra thêm một pháp nghi về Mật tông để cho các đệ tử trong dòng tu MẬT TỊNH hành trì tên là:

“CHUẨN ĐỀ ĐẠI BI, PHÁP NGHI HỢP THỨC”

Nghi thức này chỉ rất rõ về phương cách phối hợp sự trì niệm giữa hai đại thần chú là CHUẨN ĐỀ và ĐẠI BI, được xem như là một pháp nghi đặc biệt dành riêng cho những hành giả có căn về Mật tông tu tập nhất là trong thời buổi mạt pháp đầy ma nạn nhiễu nhương như hiện nay.

Kế tiếp sau đó ngài soạn dịch lại bộ kinh: “ĐẠI THÔNG PHƯƠNG QUẢNG, SÁM HỐI DIỆT TỘI, TRANG NGHIÊM THÀNH PHẬT” để bổ túc cho bản cũ của một dịch giả đã (dịch) thiếu sót trước kia cho được hoàn hảo hầu góp phần duy trì và bảo toàn pháp bảo về sau.

Sau thời gian này, trước khi quyết định vĩnh viễn bế thất tịnh tu cho đến ngày mãn kiếp, ngài vì lòng từ bi và thương cho các Phật tử phần đông bị phiền não và ma nạn khuấy phá trong bước đường tu nên (một lần chót) ngài soạn ra một pháp tu MẬT TỊNH phổ thông, thích hợp với mọi trình độ của Phật tử tên là:

“TÂY PHƯƠNG NHẬT KHÓA”

và cho phổ biến rộng rãi trong hàng liên hữu để nương theo đó mà hành trì trên con đường về nơi Cực lạc.

Từ đây ngài bế quan, tạ tuyệt mọi duyên đời và chuyên tâm trì niệm, không còn tiếp xúc với ngoài duyên nữa. Đã có rất nhiều Phật tử và bổn đạo từ những nơi xa vì chán ngán duyên đời, phát tâm tu niệm v.v… tìm đến tịnh xứ để mong được diện kiến và thọ pháp tu tập cùng ngài, nhưng ngài đều từ tạ hết, chỉ thỉnh thoảng gởi giấy ra biên vài lời khuyến nhắc tu niệm mà thôi.

Đại khái như bài thơ sau đây (làm vào năm Tân Mùi 1990 được gởi ra từ trong tịnh thất cho một Phật tử ở phương xa về thăm):

Năm Mùi non nước một màu Tân,

Cánh én, cành mai đón chúa Xuân.

Đức mỏng đã cam bề ẩn dật,

Tài sơ vui với đạo thanh bần.

Xin tu theo Phật môn huyền diệu,

Chớ nghĩ phàm tăng chốn bạch vân.

Nếu có túc duyên rồi sẽ gặp,

Đừng lên mâu thất bận xa gần.

VÔ NHẤT
Thích Thiền Tâm

Qua bài thơ này ta nhận thấy cố Hòa thượng quả nhiên là một bậc chơn tu, đầy lòng khiêm hạ. Mặc dù ngài đã được không biết bao nhiêu là Phật tử kính mộ, khát ngưỡng, mong được diện kiến và nghe học các lời dạy đạo của ngài (từ năm 1984 trở về sau, bên quê nhà mỗi khi nhắc đến danh hiệu của ngài các Phật tử thảy đều cung kính, tôn xưng ngài là ÔNG PHẬT SỐNG). Ấy vậy mà ngài vẫn nói rằng:

– Mình là người thiếu đức hạnh (Câu: Đức mỏng mà cam bề ẩn dật) và kém tài năng (Câu: Tài sơ vui với đạo thanh bần) – khuyên các Phật tử nên tu theo các pháp nghi (mà ngài đã soạn trước khi bế quan vĩnh viễn) sẵn có chớ đừng nên nghĩ tưởng hay quá đưa cao ngài là một kẻ phàm tăng nơi chốn đầu non. (trong khi đó thì có những kẻ khác tài, đức không ra chi lại vênh vang, tự đắc xưng ta là cao nhơn, danh đức nhan nhãn khắp hết mọi nơi trong chốn tăng già).

Kể từ nay về sau hàng tứ chúng học đạo gần xa khắp nơi không còn được dịp gặp gỡ ngài như khi xưa nữa, theo ý thơ sau đây:

Ẩn tu phương tiện mượn thi ngâm,

Thức ngộ mình, người khởi đạo tâm.

Đâu nghĩ hoa đào ra động bích,

Mà mong Lưu, Nguyễn ghé vào thăm (1)

Ghi chú:

(1) Lưu, Nguyễn tức là Lưu Thần, Nguyễn Triệu hai người thư sinh này tình cờ đi lạc vào động tiên ở núi Thiên thai và kết duyên cùng tiên nữ. Bài thơ này ý nói: Ngài không có ý cầu các việc quyền, danh, lợi, lạc của đời nên không mong cho có ai tới lui thăm viếng hết.

Lối vào Thiên thai tiên động nay đã khép kín lại rồi và Hòa thượng Đại Ninh Thích Thiền Tâm từ đây không còn xuất hiện ra (nơi trường đoạt lợi, tranh danh của người đời nay nữa), ngài quyết chí vãng sach về cõi Tây phương nơi kim đài thượng phẩm, qua ý thơ sau đây:

Sống chết thịnh suy lý vẫn thường,

Tuổi cao gần Phật bận chi thương.

Sen thanh thơm thoảng tòa kinh phạn,

Trăng bạc soi ngần mái tóc sương.

Phai khách viếng thăm, phai tục lụy,

Đậm câu trì niệm, đậm liên hương.

Nghìn tầm bặt dấu trâu người mất, (1)

Muôn trượng, đài kim ánh tỏ tường.

VÔ NHẤT
THÍCH THIỀN TÂM

Ghi chú:

(1) Nghìn tầm bặt dấu trâu người mất – đây là chiếu theo ý của 10 bức tranh “Thập mục ngưu đồ” tức là 10 bức tranh tìm trâu. Ba chữ: “Trâu người mất” là tượng trưng cho ý Năng – Sở tiêu vong. Ngã – Nhơn dứt sạch (tức là thành đạo và giải thoát vậy), còn 4 chữ “Nhìn tầm bặt dấu” là chỉ cho ý “dứt hoặc, chứng chơn” của các bậc đắc đạo.

Trong đây ta nhận thấy cái phong thái thanh thoát, xuất trần của ngài, một vị cao tăng đã lìa được lợi danh, nơi miền tục lụy, quyết chí tu hành để đạt cho được đạo mầu giải thoát. Đối với ngài thì càng ít khách tới viếng thăm bao nhiêu thì mùi tục lụy càng phai nhạt nhiều đi bấy nhiêu (trong khi đó thì ngược lại, đa phần các vị tu hành ngày nay thì họ càng mong cho có nhiều (khách) tới thăm viếng mình để tỏ cho mọi người chung quanh biết rằng ta đây là một bậc cao tăng, danh đức nên được nhiều người lui tới viếng thăm không dứt) qua ý của hai câu thơ:

Pha khách viếng thăm, phai tục lụy,

Đậm câu trì niệm, đậm liên hương.

Ý thơ tuyệt diệu, phi thường, quả nhiên là phong cách của một bậc cao tăng thoát tục không sai vậy.

LƯU XÁ LỢI
Nha (sĩ) xá lợi

Từ khi ngài bế quan, nhập thất trở lại và quyết chí niệm Phật để cầu được vãng sanh từ năm 1975 cho đến nay (1992) gần 20 năm trôi qua, ngài sống đời đạm bạc và an phận tu hành, nếm đủ hết các mùi tân khổ, tự giam mình trong căn thất nhỏ chưa đầy 20 thước vuông, đêm ngày lễ bái hành trì, xưng niệm hồng danh của đức A Di Đà Thế Tôn không gián đoạn, cơm hẩm, rau canh, khắc khổ qua ngày – một việc làm mà các vị cùng tu đương thời ít ai sánh nổi. Đương nhiên là sắc thân tứ đại của ngài cũng phải theo lẽ sanh diệt vô thường mà biến đổi, yếu đau, nhưng bù lại công đức tu hành của ngài càng thêm tăng tiến, tinh thần càng thêm minh mẫn, trí huệ càng thêm được phát sanh.

Cứ mỗi lần ngài vào trong khóa lễ và trì niệm thì từ nơi răng của ngài tiết ra một chất nước cam lộ có mùi vị ngọt thanh, trưởng dưỡng đạo căn ngày thêm thành thục, theo ý thơ sau:

Ẩn tu niệm Phật suốt thâu canh,

Cam lộ từ răng đượm ngọt thanh.

Khát nước đã nhờ công đức thủy,

Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân Anh.

(Ẩn tu ngẫu vịnh)

Và do vì như vậy mà tất cả 32 chiếc răng của ngài đều đã biến thành ra “Nha (xỉ) xá lợi”.

Vì sao mà được biết là tất cả các răng của ngài đã biến thành Xá lợi?

Đây chắc chắn là một câu hỏi đầu tiên và phổ thông nhất trên môi, miệng của tất cả mọi người khi đọc đến nơi đây. (Bảo Đăng dám chắc như vậy).

Việc này không phải là chuyện sai ngoa hay khoe khoang, khoác lác (vì cố Hòa thượng có bao giờ nói với ai là ngài tu cao, hay là đã chứng đắc được quả vị gì đâu trái lại, ngài còn nói mình là người kém tài năng, vô đức hạnh nữa thì làm sao mà nói rằng ngài là một người khoe khoang, khoác lác được).

Xin hãy đọc và nghe Bảo Đăng kể lại câu chuyện sau đây:

– Mấy năm sau cùng trước khi viên tịch, nướu răng (cắm) của ngài bị sưng làm cho ngài hơi khó chịu vì đau nhức. Một người tại gia đệ tử của ngài pháp danh là CHÁNH KIẾN sau khi được biết như vậy có xin phép (vào thăm bệnh) và thưa cùng với ngài rằng:

– Bạch Hòa thượng, con có một đứa con trai là nha sĩ có phòng làm răng ở Sài gòn. Được biết ngài bị sưng chân răng, nếu như ngài cho phép con sẽ gọi nó lên đây để chữa trị cho ngài. Xin ngài từ bi cho chúng con được ân triêm chút phần công đức.

Ngài bằng lòng và sau đó vị nha sĩ Hòa (tên con trai của đạo hữu Chánh Kiến) chở một số máy móc nha khoa từ Sài Gòn lên Phương Liên tịnh xứ để khám răng cho “Sư Ông”.

Bảo Đăng xin ghi lại (một tí) phần phỏng vấn của mình nơi phòng làm việc của vị nha sĩ (Hòa) ấy trong hai lần về Sài Gòn như sau:

– Thưa chị, răng của sư ông 32 cái còn nguyên, cứng chắc, trắng trẻo, đều đặn như răng của một người còn trẻ tuổi và tôi thấy có một điều rất lạ lùng, đặc biệt là tất cả răng cấm của Sư Ông không có các vết hằn sâu xuống như răng cấm của mọi người (thường).

Hỏi: Nghĩa là sao?

Đáp: Nghĩa là các răng cấm của sư ông đều vun cao lên tròn trịa như hòn bi. Sau khi khám kỹ thì tôi thấy sư ông chỉ bị sưng nướu răng cho nên hành ra đau nhức mà thôi. Muốn cho nó hết nhức lẹ thì chỉ có việc nhổ quách cái răng ngay chỗ đau ấy lên là xong. Tôi trình bày như vậy và đựơc sư ông đồng ý cho phép nhổ.

Sau khi nhổ răng xong rồi thì ni sư trưởng tử (tức là ni sư Thanh Nguyệt đã bưng dĩa chực sẳn kế bên) liền thỉnh ngay chiếc răng của Sư Ông vào đĩa và đem lên để trên bàn thờ Phật.

Riêng tôi thì tiếp tục hầu chuyện cùng với Sư Ông một chặp sau Sư Ông hỏi:

– Con có cần hỏi thầy thêm chuyện gì nữa không?

Không hiểu sao bổng dưng tôi đáp:

– Bạch Sư Ông, không có, con chỉ xin Sư Ông từ bi cho con thỉnh cái răng vừa mới nhổ để sau này làm kỷ niệm.

Sư Ông nhìn tôi một cách chăm chú, ngài lặng thinh một hồi rồi cười và bảo với ni sư Thanh Nguyệt rằng:

– “Thôi cho nó cái răng đó đi, bởi vì nhân duyên của nó có phần như vậy”. Ni sư trưởng tử làm thinh chần chờ có ý không muốn trao chiếc răng ra và Sư Ông phải nhắc thêm lại một lần nữa:

– “Thôi! Cho nó đi.”

Lúc đó ni sư mới chịu đi lên bàn Phật lấy răng xuống trao cho tôi với một vẻ mặt gượng ép và bất đắc dĩ lắm.

Khi trao răng cho tôi, Sư Ông có nói:

– Cái răng này thì nó cũng bình thường thôi chớ không có gì lạ hết. Nhưng vì Sư Ông đã niệm Phật, trì chú lâu rồi, nếu như sau này có ai lỡ bệnh ma tà dựa nhập thì cho họ mượn đeo vào mình vài ngày là ma tà sẽ xuất ra ngay.

Tôi vâng, dạ nhưng cũng không để ý gì cho mấy, (vì tôi còn rất ấu trĩ trong đường đạo nên không biết chi nhiều) chỉ biết gói kỹ răng lại và bỏ vào túi áo mà thôi… Có người biết được việc này nên đề nghị với tôi là xin mua lại cái răng của Sư Ông với giá 3 chỉ vàng.

Tôi từ chối ngay lập tức, sau đó tôi có nói lại việc này cùng với ba tôi (Chánh Kiến), ổng cười và nói:

– Ba lượng, ba chục lượng, ba trăm lượng cũng còn chưa xứng chớ đừng nói chi là 3 chỉ. Bộ ai khùng sao mà đem răng của Sư Ông mà bán chớ.

Tôi mang chiếc răng ấy về Sài Gòn và cất đi để làm kỷ niệm chứ cũng chưa để ý gì về nó (răng) cả. Lúc ba má tôi được chấp thuận qua Mỹ (theo diện Quân nhân) tôi mới nghĩ rằng:

– Bình sanh Ba Má tôi rất kính trọng và xem Sư Ông cũng như thần thánh. Nay Ba Má tôi sắp sửa đi Mỹ rồi, vậy thì bây giờ phải nên lấy cái răng của Sư Ông xuống, cắt ra làm hai, đem đi bọc vàng, làm dây chuyền cho Ba Má tôi mỗi người đeo theo một nửa để làm kỷ niệm dấu tích của Sư Ông.

Khi mang cái răng ấy xuống và trước khi sắp sửa cắt răng ra, điều đầu tiên mà tôi nhận thấy ở chiếc răng này như sau:

– Mặc dù chiếc răng ấy để lâu ngày rồi nhưng nó vẫn có màu trắng tinh và sáng bóng, sạch y như là một chiếc răng sống (tức là răng còn gắn với xương hàm) chớ không phải là một cái răng chết đã được nhổ lên lâu ngày.

– Răng ấy có hai màu: nửa bên là màu ngà trắng sáng – nửa bên là màu ngũ sắc giống như xà cừ.

– Từ trong răng có một mùi vị thơm dễ chịu thoang thoảng bay ra.

– Mặc dù thấy như vậy và trong tâm cũng rất lấy làm lạ, nhưng tôi vẫn quyết định cắt răng ra làm hai như ý muốn (ở trên). Tôi mới lấy cưa (loại cưa răng thông thường mà các nha sĩ vẫn dùng) để cắt thì lưỡi cưa bị trợt ra ngoài, răng của Sư Ông nháng lửa lên và vẫn y nguyên không hề hấn gì hết. Tôi lấy làm lạ lắm nghĩ rằng hay là lưỡi cưa này đã cũ chăng? Sau đó tôi thay lưỡi cưa khác mới nguyên, chưa sử dụng, cắm cúi cưa cả buổi, đổ mồ hôi mà chiếc răng cũng vẫn y như trước, chẳng hề bị khuy tổn chút nào.

Sau khi làm đủ mọi cách mà vẫn không thể nào cưa chiếc răng của Sư Ông ra được. Tôi mới nghĩ đến việc đem chiếc răng ấy đến chỗ chuyên môn cưa sắt thép để nhờ cắt dùm.

Tôi mang cái răng ấy ra ngoài chợ, đến chỗ người quen và nhờ cưa chiếc răng ra làm hai. Ông ấy đòi giá 50.000 đồng (tiền Việt Nam), tôi nói: gì mắc quá vậy! cái răng có chút xíu mà, thôi 30.000 được rồi!

Ông ấy đồng ý và sau đó mới lấy loại cưa lọng (đặc biệt) ra, kẹp cái răng vào trong bàn cắt mà hành sự”. Ổng cùng với một người phụ nữa nắm hai đầu cưa, cắt cái răng của Sư Ông.

Đến đây tôi mới để ý và thấy có chuyện lạ lùng phi thường xảy ra:

– Số là cái răng Sư Ông kỳ lạ lắm. Cưa như vậy mà nó vẫn không đứt, lưỡi cưa cứ luôn luôn bị trợt ra bên ngoài, (lửa nháng lên văng ra như đang cưa sắt vậy) mà cái răng ấy cũng vẫn cứ y nhiên như cũ, không trầy trụa chút nào.

Tôi thấy vậy mới nói:

– Thôi đi ông ơi! lưỡi cưa của ông cũ, mòn quá rồi, cái răng có chút xíu vậy mà cắt cũng không đứt nữa, thôi thay lưỡi cưa mới đi.

Y ta mới cặm cụi thay vào một lưỡi cưa khác (còn mới nguyên) và rồi một lần nữa cả hai người đồng xúm nhau lại kéo cưa cắt răng của Sư Ông, cưa đến nỗi hai người ấy mệt nhoài, mồ hôi đổ ra ướt áo, ướt mặt mà cái răng ấy vẫn y chang như trước chẳng hề hấn gì cả, càng cắt bao nhiêu thì nó càng nháng lửa ra bấy nhiêu giống như lấy búa đập vào đá vậy, bay ra mùi khen khét mà chiếc răng cũng vẫn nguyên vẹn như thường.

Tôi thấy vậy lấy làm lạ lắm, mang răng về phòng làm việc và xem kỹ lại (sau khi cho ông bạn kia 10.000 đồng tiền cà phê) thì tôi thấy cái răng của Sư Ông có những đặc điểm sau:

– Mặt trên của răng tròn trịa, đầy đặn. Toàn thể có màu trắng tinh như ngọc long lanh ngũ sắc, mặc dù được nhổ từ lâu rồi mà răng vẫn không biến đổi ra thành màu xám đen như các răng thông thường khác (hi hữu).

Tôi lấy làm ngạc nhiên lắm, là một nha sĩ chuyên nghiệp nhưng tôi chưa bao giờ thấy răng của ai kỳ lạ và đặc biệt như vậy hết. Tôi không hiểu đạo nhiều nên tôi không biết lý do (khi Bảo Đăng nghe kể mọi việc như vậy rồi mới xin được phép quan sát chiếc răng kỹ lại và bảo rằng đây chính là “nha sĩ xá lợi” của một bậc cao tăng đắc đạo, thì lúc đó nha sĩ Hòa mới biết mình đang nắm giữ một bảo vật quý giá nhất trên đời) mà chỉ tự nghĩ sao mà cái răng này nó cứng “thần sầu” như vậy kia?

Tôi cũng vẫn còn có ý định là phải cắt răng ra làm hai để tặng cho Ba Má vì thế nên tôi mới tìm phương cách. Sau đó tôi lấy thạch cao làm một cái đế rồi để cái răng của Sư Ông lên, cầm cho (có thế) vững chắc để cắt. Tôi lấy máy cắt của nha sĩ loại mạnh nhứt (chạy đến 6.000 tua trong 1 giây đồng hồ) của Mỹ đế cắt cái răng “lạ lùng, bí hiểm” này.

Khi đặt cái lưỡi cưa vào răng để cắt thì cũng vẫn y như trước, là chiếc răng nháng lửa ra sáng lòa như pháo bông nhưng vẫn không hề tổn giảm. Máy cắt mạnh như vậy mà chẳng sao cắt được, chỉ làm cho nó bị trầy sơ một tí xíu mà thôi.

Sau đó tôi mới đem răng cất đi, hôm sau tôi vẫn ra phòng nha khoa làm việc như thường lệ. Trong lúc đó thì Sư Cô Bảo Đàn (là đồ tôn của sư ông) từ trên Phương Liên tịnh xứ (Đà Lạt) đi xe đò xuống Sài Gòn, đến nhà của Ba Má tôi và nói rằng:

– Hòa thượng sai tôi xuống bảo nói lại với nha sĩ là “cái gì” Sư Ông cho đó, nếu như không muốn xài thì trao lại cho Sư Ông chớ đừng có phá!

(Ở dưới Sài Gòn cắt răng của ngài ra, mà ở trên Đà Lạt cách đó 300 cây số ngài đã biết và sai người về đòi lại rồi! Đây là một sự phi thường của cố Hòa thượng mà chỉ có người tu chứng đắc như ngài mới được “thần thông” như thế mà thôi).

Ba tôi mới hỏi Sư Cô vậy chớ Sư Ông có bảo đó là cái gì không?

Sư Cô đáp cũng không biết nữa. Sư Ông sai về bảo sao thì nói y vậy thôi chớ tôi đâu có biết đó là “cái gì”? Nhưng bác cứ nói vậy thì chắc nha sĩ biết liền và Sư Cô trở về Đà Lạt ngay ngày hôm đó (không có chờ vì sợ trễ xe).

Đến tối lại tôi từ phòng làm việc trở về nhà thì Ba tôi nói:

– Hồi sáng này Sư Cô Bảo Đàn ở trên sư ông có về bảo ba nói lại với con là “cái gì đó” của sư ông cho nếu như con không xài thì mang lên trả lại cho sư ông chớ đừng có phá. Vậy chớ “cái gì” của sư ông cho mà con phá vậy?

Vừa nghe xong thì tôi giật mình, hết hồn! Sau đó tôi mới thuật lại việc cắt chiếc răng cho Ba Má tôi nghe và nói:

– Con đâu có phá, con chỉ muốn cắt chiếc răng ấy ra làm hai để tặng cho Ba Má làm kỷ niệm sau này khi đi qua Mỹ mà thôi.

Ba Má tôi mới nói:

– Cái răng ấy Sư Ông đã ban cho con, trước kia khi trao răng cho con Sư Ông có nói đó là cái duyên của con mà. Vậy thôi con hãy giữ nó đi, đấy là bảo vật của Sư Ông đó.

Khi nghe thuật đến đây thì Bảo Đăng mới nói cho nha sĩ biết rằng cái răng cắm (tuôn ra chất nước cam lộ ngọt thanh mỗi khi ngài trì niệm) của cố Hòa thượng đã thành “xá lợi” rồi, và ông là một người đại phước vì đã được giữ “nha xỉ xá lợi” của một bậc thánh tăng đó mà ông có biết không?

(Đây là nguyên nhân thứ nhất để biết được chiếc răng của cố Hòa Thượng là xá lợi (và đương nhiên một bậc tu hành mà 32 cái răng đã biến thành “xá lợi” hết như thế rồi thì không cần phải nói dài dòng thêm chi cho nhiều, ta cũng biết ngài là một người chơn tu đắc đạo).

Nha sĩ Hòa nói tiếp:

– Sau khi biết được chiếc răng của Sư Ông là xá lợi rồi thì tôi mừng lắm đem đi bọc vàng và làm dây chuyền (liền lạc không có móc khóa để mở ra) đeo sát vào cổ (khó cởi ra lắm), kể từ khi tôi đeo răng xá lợi của Sư Ông vào trong người tôi rồi thì có thêm một sự huyền diệu khác nữa xảy ra như sau:

– Số là nghề nghiệp chuyên môn của tôi tăng tiến vượt bậc, những thân chủ có các răng đau khó chữa trị (mà các bậc thầy của tôi cũng lắc đầu chịu thua luôn) khi họ tìm đến tôi thì tôi chữa trị rất dễ dàng (như chơi vậy). Có lần một bà thân chủ đó bị đau một cái răng cắm, răng này vì có nhiều chân, nên khó nhổ, các nha sĩ khác đề nghị phải nên giải phẫu, bà đã đi nhiều nha sĩ tư và một số bệnh viện lớn, các bậc đàn anh và thầy của tôi cũng đều khuyến cáo như vậy (phải giải phẫu). Khi bà đến nơi tôi là người nha sĩ cuối cùng để khám quyết định, sau khi khám răng xong tôi cũng thấy chỉ có giải phẫu để đem răng ra là ổn nhất.

Sau đó tôi mới quay ra sửa soạn dụng cụ cần thiết, đến chừng xong rồi tôi mới bảo bả hả miệng ra để xem lại thì không còn thấy cái răng đau ở đâu hết, tôi tưởng là bà ấy nuốt vào bụng rồi nên hơi lo vội vã hỏi:

– Ủa, cái răng đâu, bộ bà nuốt rồi hả?

Bà ấy đáp:

– Đâu có, tôi nhổ vào trong ống nhổ – chu choa, nha sĩ giỏi quá, mới đụng tay vào một cái thôi là răng rớt ra liền.

Tôi nghe nói vậy nên rất ngạc nhiên (nhưng cố gắng làm tỉnh) lại ống nhổ gắp cái răng ấy ra (để xem vì sao mà kỳ cục).

Nha sĩ Hòa kể tiếp: thật ra tôi chưa có làm gì hết chỉ mới có xem thử thôi rồi lấy tay ấn nhẹ mấy cái thì chiếc răng ấy tự nhiên tróc chân rớt ra ngoài (mà bà ấy cũng không hay và tôi cũng không biết nữa).

Đây la một trong nhiều sự phi thường khác mà tôi cũng không hiểu tại sao? Quả thật chiếc răng xá lợi của Sư Ông có một sự thần diệu phi thường mà khoa học không làm sao hiểu cho thấu được.

Các bậc đàn anh và thầy tôi đôi lúc có hỏi sao mà tôi hay quá vậy, tôi chỉ biết đáp là may rủi cho xong việc mà thôi. Họ đều nghi chắc là tôi có một bài thuốc gì đó bí mật lắm của một người chị, cũng là nha sĩ ở bên Úc Châu gởi về (thật ra bà chị không có gởi cho tôi cái gì hết, tôi gởi thêm cho chỉ thì có).

– (Và đây là một nguyên nhân khác nữa để biết rằng chiếc răng của cố Hòa thượng là xá lợi có một khả năng “tế độ” phi thường. Và đương nhiên ta cũng biết rằng một bậc tu hành mà tất cả 32 cái răng đều hóa thành xá lợi hết như thế thì hẳn nhiên đấy là một bậc thánh tăng rồi chẳng còn phải nghi ngờ, thắc mắc điều chi nữa cả).

Và kế tiếp thêm đây là một sự huyền bí, linh thiêng khác nữa về chiếc răng xá lợi của cố Hoà Thượng:

Nha sĩ Hòa kể tiếp:

– Tôi có một đứa con bị tai nạn lưu thông, cả mình mẩy nó đều bị trầy trụa, đau nhức lắm. Trưa hôm đó tôi nằm ngủ mà trong lòng có ý lo buồn, mơ màng chợt thấy có nhiều người từ ngoài cửa đi vào, xúm lại giật sợi dây chuyền có mang răng xá lợi của Sư Ông. Tôi không chịu cho và lấy tay nắm chặt lại, hai đàng dằn co nhau một hồi, tôi bỗng nghe mấy người ấy nói với nhau rằng:

– Thôi đi, đừng hành thằng con của y ta nữa bởi vì y ta có bảo bối, thần vật của bồ tát hộ thân rồi, mình làm quá không nên đâu. Nói xong rồi họ đồng nhau ra khỏi cửa đi mất. Tôi giựt mình thức dậy thì thấy tay mình vẫn còn nắm chặt chiếc răng xá lợi của Sư Ông, còn sợi dây chuyền thì đã tuột ra đến mang tai (chớ không sút ra được vì dây chuyền quá chật lại thêm bị hai tai cản lại nên không sao vuột ra ngoài được). Sau đó tôi mới hỏi vợ tôi: em có cởi sợi dây chuyền của anh ra không thì bà nói là không, em đâu có đụng đến.

Đây là một lý do khác nữa để cho chúng ta biết thêm rằng chiếc răng xá lợi của Cố Hòa thượng là bảo vật vô giá (có một bậc nhục thân bố tát) đến nỗi quỷ thần cũng muốn cướp đoạt làm của riêng nữa.

Và còn nhiều sự linh thiêng huyền diệu khác xung quanh chiếc răng xá lợi của cố Hòa thượng lắm, nhưng Bảo Đăng tôi nhận thấy kể ra bao nhiêu đó thôi cũng đủ để chứng minh cùng (gián tiếp) trả lời cho những ai mà trước nay không tin hay nghi ngờ về việc tu hành, chứng đạo và giải thoát, vãng sanh Cực lạc của Vô Nhất Đại Sư Thích Thiền Tâm Hòa Thượng rồi.

(Vị nha sĩ tên Hòa này quả thật là một người hi hữu, không biết kiếp trước có nhân duyên gì đó đối với cố Hòa Thượng mà kiếp này mặc dù là không gần gũi, hầu hạ, hay làm đệ tử hoặc học đạo cùng với ngài lâu năm như hàng trăm, hàng ngàn đệ tử khác. Trong đó phải kể luôn cả ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt và cháu ruột của ngài là Đại Đức Bổn sư, Viện chủ Pháp Hoa tự. Tucson, Arizona Thích Hải Quang nữa đã từng thân cận, gần gũi, hầu hạ ngài “trường kỳ kháng chiến” mà vẫn vô phần để gìn giữ chiếc “nha xỉ xá lợi” vô giá độc nhất của ngài còn lưu lại trên cõi đời này. (31 chiếc răng xá lợi còn lại kia thì đã theo ngài ẩn tàng sâu vào trong mộ huyệt đáng buồn và đáng tiếc vậy thay).

Trong kinh có kệ rằng:

Hầu trung cam lộ quyên quyên nhuận,

Khẩu nội đề hồ đích đích lương.

Bạch ngọc xỉ biên lưu xá lợi,

Hồng liên thiệt thượng phóng hào quang.

Tạm dịch:

Trong cổ chất cam lộ rịn nhuần,

Trong miệng chất đề hồ nhỏ mát.

Bên răng ngọc trắng tuôn xá lợi,

Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang.

Bốn câu kệ trên đây có thể áp dụng vào cho vị tôn chủ của hệ phái “Mật Tịnh Đại Ninh”, cố Hòa thượng Liên Du Thích Thiền Tâm vậy.

Và nha sĩ Hòa nói tiếp:

– Sau khi hậu sự của Sư Ông xong rồi thì ni sư cho người đòi lại chiếc răng của Sư Ông để đem về Phương Liên tịnh xứ phụng thờ, nhưng tôi không chịu (lẽ dĩ nhiên rồi vì đây là bảo vật vô giá của một bậc thánh tăng đắc đạo để lại, ai có phần thì người ấy hưởng (chớ dại gì mà trao cho người khác), huống chi khi còn sanh thời, cố Hoà Thượng đã đích thân trao nó cho người đạo hữu này và nói rằng: Thôi, cho nó đi, đó là duyên của nó).

Và nói rằng:

– Không đâu khi nào con chết rồi thì ni sư muốn lấy về hay làm chi cũng được chớ con còn sống ngày nào thì con quyết giữ gìn nó ngày ấy (tử thủ).

Đến đây thêm một lần nữa ta nhận xét và thấy gì từ nơi cố Hòa Thượng?

Ta thấy rằng:

– Hòa thượng thọ 68 tuổi đời, 48 tuổi đạo, trọn một kiếp chỉ lo chân thật tu hành. Mặc dù bị biết bao nhiêu là sự ganh ghét, mưu hại và tai tiếng thị phi, v.v… nhiều không xiết kể, nhưng đến phút cuối cùng tất cả mọi người mới biết ra là ai giả, ai chơn như ý của hai câu thơ sau đây:

Mây tan vầng nguyệt rạng,

Nước cạn trái châu bày. (1)

Hoặc nói theo lối đời thì:

Dở, hay khoan nói lợi thương ghét,

Cao, thấp nào ai biết đúng sai.

Đến phút cuối cùng chơn, giả hiện,

Cúi đầu che mặt dấu sau tay (2)

(1) Ý của hai câu này nói: Đáo cùng rồi mới biết giả chơn – như mây tan thì vầng trăng tỏ rạng hiện ra – Nước sông cạn thì bảo châu lộ diện – Hết còn nói trăng khuyết, đất bùn v.v… như trước nữa

(2) Ý nói vì lúc trước đã lỡ nói xấu cho người rồi, bây giờ rõ lại là người không xấu mà mình xấu nên mắc cở lấy tay che mặt cho đỡ thẹn thùng.

TIẾP ĐỘ THÂN MẪU NIỆM PHẬT QUY TÂY

Vào tháng Giêng (âm lịch) sau Tết năm Nhâm Ngọ (1989), Hòa thượng cảm biết thân mẫu của mình (Cụ cố Giác Ân) số phần sắp mãn (nhắc sơ lại là trước kia khi cố Hòa thượng chưa tu thì ngài đi Mỹ Tho học thuốc về chữa trị bệnh cho mẹ, kể từ đó đến nay đã hơn 45 năm qua rồi, cụ cố vẫn an nhiên và mạnh khỏe, sống ở quê nhà tại xã Bình Xuân với gia đình của người con trai út tên Nguyễn Văn Thắng) nên ngài cho sứ giả về quê rước mẹ lên Phương Liên tịnh xứ để phụng dưỡng hầu có thể tiếp độ cho mẹ mình được vãng sanh trong buổi xế chiều, báo đền ơn cúc dục.

Người em trai út của ngài (là chú Út của Đại Đức Bổn sư Thích Hải Quang) vâng mạng và cùng tháp tùng với sứ giả đưa cụ cố lên Phương liên tịnh xứ theo lịnh của “bảo huynh đại sư”.

Ngày cụ cố lìa quê nhà, các con, cháu (nội ngoại và cháu cố) xúm lại đưa tiễn, tất cả đều lưu luyến không muốn xa rời, ai cũng đồng nhau hỏi cụ cố tương tự rằng:

– Chừng nào má (hoặc là bà nội, bà ngoại hoặc là bà cố) trở về lại?

Cụ cố tươi cười đáp:

– Bà đâu có biết chừng nào trở về, nhưng mà bà già rồi, sống bên cạnh con cháu (gần cả trăm năm) đã bấy lâu nay, bây giờ bà muốn về sống bên cạnh Hòa thượng của mấy con để an ủi và tu niệm trong lúc về chiều.

Tất cả con cháu đồng hỏi:

– Má (Bà) có dặn gì lại cho tụi con hôn?

Cụ cố tươi cười đáp:

– Má dặn mấy con, bà dặn mấy cháu, chít rằng lo niệm Phật tu hành. Đó gọi là nhớ đến má, đến Bà và Hòa thượng của nhà mình nữa.

Rồi cụ cố rời xã Bình Xuân, theo chân sứ giả của con mình cùng người con trai út (theo đưa) nhắm hướng Sài Gòn (và Đại Ninh) thẳng tiến. Tại bến đò, các con cháu đều bùi ngùi nhỏ lệ tiễn đưa.

Lần về Việt Nam sau này (kỳ hai) Bảo Đăng có “sưu tập” được một bài thơ tiễn cụ cố rời quê nhà để lên Đại Ninh như sau:

TIỄN CỤ RỜI QUÊ

Nương con về ẩn chốn am mây,

Cháu chít theo đưa cả một bầy.

Cụ bước lên đò “sang bỉ ngạn”,

Quê nhà vĩnh biệt kể từ đây.

Bà có mấy lời nay để lại:

(Các con nên gắng theo đường đạo)

Giấc mộng trần gian chớ đắp xây.

(Còn việc tu hành phải đắp xây)

Từ đó trở đi không gặp nữa,

Sắp sau hồn phách đáo trời TÂY.

Theo lời kể lại của người con (trai) út thì mặc dầu cụ cố tuổi cao (98 tuổi) nhưng cụ rất minh mẫn và mạnh khỏe. Cụ nhớ tên tuổi của từng đứa con, cháu nội, ngoại và luôn cháu cố nữa mà không bao giờ lầm lộn cả.

Với số tuổi đời như vậy mà cụ cố vẫn đủ sức đi băng đường đồng (đường đê) đến chỗ này chỗ kia, thăm con, thăm cháu. Có lần đó một người cháu nội của cụ gả con (đám cưới), tức là cháu cố gái của cụ lấy chồng, mời cụ (tức là bà nội và bà cố) đến dự lễ và hẹn ngày giờ (sáng) hôm đó sẽ chèo ghe đến rước cụ đi (ở miền quê đa số đều đi bằng ghe, xuồng) vì nhà ở cách xa nhau, nhưng ghe đi rước cụ cố chưa tới thì gia đình người cháu nội và cháu cố kia đã thấy cụ xách dù bước vào trong nhà rồi. Mọi người đều ngạc nhiên (và giựt mình) hỏi:

– Ủa, ai đưa má tới vậy? (Con trai và dâu hỏi)

– Ủa, ai đưa bà nội – bà cố tới vậy? (Cháu nội và cháu cố hỏi)

– Ủa, ai đưa bà sáu tới vậy? (Chòm xóm hỏi)

v.v… ai cũng xúm theo hỏi (giống như vậy) thì cụ cố cười nói:

– Đâu có ai đưa bà đâu, bà tự đi tới một mình mà. (Ai nấy đều chắc lưỡi la trời hết vì từ nhà cụ cố đến nhà đám cưới xa tới bốn, năm cây số (đường quê). Vậy mà cụ vẫn dư sức xách dù phom phom như thường).

Còn nữa…

Mắt cụ cố rất sáng tỏ, cụ xỏ kim chỉ và vá áo quần (rách), mùng (lủng lỗ) khỏi cần phải đeo kiếng lão.

Sơ sơ như vậy thôi thì cũng đủ biết là cụ cố khỏe mạnh và minh mẫn đến bực nào rồi! Nhưng mà cũng chưa hết đâu, kể từ năm 1945 (Ất Dậu) tức là từ khi người con trai cưng của cụ đi tu cho đến nay (tức là cố Hòa thượng) cụ y theo lời dặn bảo của “Thầy Mười” (cũng là cố Hòa thượng luôn) ngày nào cụ cũng niệm Phật 100 xâu chuỗi hết không có thiếu một thời khóa nào cả.

(Khi cố Hòa thượng còn ở nhà thì ngài có dạy cho ba, mẹ cách tu như sau:

– Mỗi ngày đốt nhang cắm lên bàn thờ, lạy Phật 3 lạy, ngồi xuống lần chuỗi niệm Nam mô A Di Đà Phật 100 xâu (chuỗi trường 108 hột) rồi quỳ xuống, chắp tay vái rằng:

– “Nam mô A Di Đà Phật, xin Phật thương xót tiếp độ cho con được sanh về Tây phương Cực lạc”.

Đơn giản như vậy thôi chớ không có theo một pháp nghi cầu kỳ nào khác hết. Kể từ sau ngày cố Hòa thượng trốn nhà đi rồi thì ông bà cụ cố cũng vẫn tu theo phương cách đó. Sau ngày cụ ông mãn phần rồi thì cụ cố cũng vẫn giữ y theo cách tu niệm như vậy cho đến ngày tịch tại Phương liên tịnh xứ (đó là việc sau).

Là người học đạo (và tu theo Tịnh độ) chúng ta ai cũng đều biết rằng sở dĩ mà cụ cố được nhiều sức khỏe, minh mẫn, sống trường thọ v.v… như vậy là nhờ ở nơi cụ chân thật niệm Phật tu hành cùng với một tâm chí thành tin tưởng và cầu nguyện, không nghi ngờ, không đắn đo, do dự chi cả. Do nơi công đức ấy chiêu cảm nên cụ cố mới được sự “Phi thường đặc biệt” này (hơn hẳn các cụ bà khác).

(Đến đây, Bảo Đăng tôi chợt nhớ lại các thời pháp của Đại Đức bổ sư giảng trước kia, có một đoạn như sau:

Có hai hạng người được gọi là chơn niệm Phật:

– Một là bậc thông suốt tông giáo (tức là thông suốt hết các kinh điển lớn nhỏ), do vì thông suốt các kinh điển Phật dạy nên hiểu rõ tôn chỉ Tịnh độ mà niệm Phật không có nghi ngờ chi cả.

– Hai là hạng người ngu tối, không hiểu (kinh điển chi hết) tông, giáo là gì cả, chỉ biết nghe dạy niệm Phật rồi thành thật vâng lời niệm hoài mà thôi. Hạng này cũng có thể làm người chơn niệm Phật được… Ngoài hai hạng này ra, chơn niệm Phật hay không đều phải do nơi sự gắng sức của mình và tự xét coi mình có thực hành đúng theo giáo pháp Tịnh độ hay không)…

(Cụ cố đây chính là hạng người chơn thật niệm Phật loại thứ hai vậy).

Cụ vẫn thường nói với các con rằng:

– Má phải niệm Phật hoài mới được, một là vì mỗi lần niệm Phật xong má thấy khỏe lắm, vui lắm. Hai là vì hồi trước “Thầy Mười” có gởi thơ về dặn cậu mấy con và má rằng:

Nếu có nhớ con xin niệm Phật…

Nên bây giờ má phải niệm Phật hoài để luôn luôn nhớ đến Thầy Mười của má đang tu hành cực khổ ở phương xa (Thiệt là cụ cố nhớ dai hết sức).

Do vậy mà hơn 45 năm qua, không một ngày nào là cụ cố quên niệm Phật hết cả.

(Bây giờ chúng ta thử làm một bài toán coi trong 45 năm đó cụ niệm được bao nhiêu câu “Nam mô A Di Đà Phật” nè:

Bài toán như sau:

(108 x 100) (365) = 3.942.000 câu (Một năm)

Cụ niệm trong 45 năm, như vậy là được:

3.942.000 x 45 = 177.390.000 câu.

Với số câu niệm: Nam mô A Di Đà Phật như trên (177.390.000 câu) mà cụ cố niệm với lòng tin chơn thật, không nghi ngờ chi hết trong suốt 45 năm trời cho nên cụ được sống lâu, minh mẫn, khỏe mạnh và quy Tây (vãng sanh) là phải rồi, đâu cần phải thắc mắc nghi ngờ chi nữa).

Sau ngày cụ cố về nương ở với Hòa thượng để tu tại Phương Liên tịnh xứ rồi thì trưởng tử của ngài là ni sư Thích nữ Thanh Nguyệt thừa mạng lịnh của thầy mà săn sóc và lo lắng cho cụ cố bên tịnh thất của mình.

Tánh cụ cố hiền lành, chơn chất và dễ chịu nên mọi người trong đạo tràng ai cũng đều quý kính cụ cả. Mỗi ngày cứ vào khoảng 10 giờ sáng thì ni sư hướng dẫn cụ cố đi qua bên tịnh thất của cố Hòa thượng và cụ cố ở đây niệm Phật (chung với ngài). Hòa thượng dùng phương tiện này để làm cho thân mẫu của mình hăng hái và vui vẻ niệm Phật nhiều hơn,vì được ở gần bên con sau hơn 40 năm dài xa cách. – Đến 12 giờ trưa thì ni sư qua rước cụ cố trở về tịnh thất của mình lại.

Ngày nào ngày nấy cũng đều đặn y như vậy. (Từ sau Tết Nhâm Ngọ (1959) cho đến ngày mùng một tháng 5 âl). Sáng hôm đó (mồng 2 tháng 5) cụ cố tự nhiên đi một mình, không chờ ni sư hướng dẫn như thường lệ, qua gõ cửa thất của cố Hòa thượng. Ngài mở cửa ra rước cụ cố vào và hỏi:

– Ủa, sao má không chờ sắp nhỏ dẫn đi mà một mình qua sớm quá vậy?

Cụ cố đáp:

– Hôm nay má qua sớm niệm Phật với thầy một bửa nữa thôi, ngày mai má mắc bận đi xa rồi chắc là không còn có dịp được niệm Phật chung với thầy nữa.

Là một đại Hòa thượng, tôn sư của một tông môn và là một đại sư về Tịnh Độ, nên sau khi nghe mẹ nói như vậy thì ngài biết chắc là mẹ mình đã tới thời kỳ vãng sanh rồi (quy kỳ). Muốn kiểm chứng lại (cho chắc ăn) nên ngài mới hỏi thêm rằng:

– Ủa, má đi xa hả, vậy để thầy coi có đứa nào theo hầu phụ đỡ tay chân cho má được không.

Cụ cố đáp:

– Thôi, má không cần đâu, má tự đi thôi. Vả lại chỗ này xa lắm không phải ai đi cũng được. Ngày mai có người tới rước má đi.

Cố Hòa thượng hỏi:

– Mấy giờ má đi?

Cụ đáp:

– Đúng ngọ ngày mai mồng 3 tháng 5 là má sẽ vĩnh biệt thầy.

Rồi cụ ở nơi thất của Hòa thượng và cùng với ngài niệm Phật như thường lệ chớ không có gì khác lạ hết.

Sau khi ni sư Thanh Nguyệt qua rước cụ cố trở về lại thất của mình rồi thì Hòa thượng kêu ni sư trở qua, nói cho ni sư biết về việc vãng sanh của cụ cố, dặn nấu nước thơm tắm cho cụ và chỉ dẫn các việc hậu sự, sắp đặt đâu đó đàng hoàng.

Sáng ngày hôm sau, Hòa thượng rước cụ cố qua tịnh thất của ngài để hộ niệm cho mẹ vãng sanh (với sự tham dự của ni sư trưởng tử và một số môn đồ thân cận cùng với vài người con cháu). Suốt từ sáng đến gần 12 giờ trưa cụ cố nằm yên trên đơn lần chuỗi niệm Phật theo tiếng hộ niệm đều đặn của mọi người và sự hiện diện của cố Hòa thượng.

Đến 12 giờ trưa cụ ngõ lời chào vĩnh biệt Hòa thượng cùng tất cả mọi người đoạn nằm nghiêng qua phía Tây mặt lần chuỗi niệm Phật, tiếng cụ cố nhỏ dần đi và rồi cụ im lặng thoát hóa ngay sau đó.

Cụ cố hưởng thọ được 98 tuổi đời và niệm Phật được 45 năm.

Quả y như lời trong bài thơ “Tiễn cụ rời quê” có hai câu sau đây:

Cụ bước lên đò “sang bỉ ngạn”,

Quê nhà vĩnh biệt kể từ đây.

Ngày rời khỏi Bình Xuân để lên Đại Ninh là ngày mà cụ cố vĩnh biệt quê nhà, vĩnh biệt con cháu, làng xã, đất nước quê hương. Khi cụ cố bước chân lên đò “qua bên kia sông” để ra đi nơi viễn xứ, là cụ đã báo trước điều rằng:

– Từ đây và vĩnh viễn về sau cụ sẽ không bao giờ quay bước chân trở lại đường quê xưa nữa. Cụ đã qua “bờ bên kia” rồi, vào lúc 12 giờ trưa ngày mồng 3 tháng 5 năm Kỷ Tỵ (1989), bỏ lại “bờ bên này” tất cả duyên đời và tất cả cháu con … như ý của hai câu thơ cuối:

Từ đó trở đi không gặp nữa,

Sắp sau hồn phách đáo trời Tây.

Hậu sự của cụ cố được ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt cùng với tất cả tứ chúng trong đạo tràng và các nơi hay tin về tụng niệm, lo lắng rất đông không khác gì đám ma của một hòa thượng lớn (Gần cả trăm tăng ni và hàng ngàn Phật tử tham dự).

Di thể của cụ cố Giác Ân được mai táng ở trên đồi (tại vị trí mà cố Hòa thượng đã xem xét và chọn sẵn cho mẹ trước kia). Khi di quan cụ cố lên đồi đến nơi “An dưỡng” mọi người quay đầu trông lại thấy cố Hòa thượng đắp y hậu bước ra khỏi cổng tịnh thất, đứng lặng im chắp tay, hướng mắt theo dõi để tiễn mẹ về Tây.

Trong hai lần về bên quê nhà, ngoài việc tìm kiếm các tài liệu cho quyển sách này ra, Bảo Đăng còn có “Sưu tập” được thêm các bài thơ dành cho cụ cố như sau:

KHEN CỤ CỐ GIÁC ÂN

Tánh người chơn chất lại hiền hòa,

Sanh một con trai khác hết nhà.

(Danh đức đời tôn là Phật sống)

Thiền Tâm, Vô Nhất đại sư ta.

Bốn mươi năm lẻ ngày đêm lễ,

“Con muốn về Tây” nguyện thiết tha.

Chín tám tuổi đời tâm trí tịnh,

Niệm Phật chào thầy, mẫu tử xa.

(Bài thơ này ý nói:

– Cụ cố tánh tình hiền đức, sanh ra một người con trai phi thường được đời tôn là Phật sống – Vô Nhất đại sư Thích Thiền Tâm – Cụ niệm Phật trên 40 năm ngày đêm đều cầu nguyện “Xin Phật rước con về Tây phương Cực lạc” – Năm 98 tuổi cụ niệm Phật và chào vĩnh biệt (cùng với) con mình mà nhắm mắt quy Tây).

Và lại còn có thêm một bài thơ khác nữa để phúng điếu lên cụ cố sau đây:

GIÁC ÂN CỤ CỐ NIỆM PHẬT QUY TÂY

GIÁC mình, giác cả chúng mê tình,

ÂN đức từ bi cứu vạn linh.

CỤ túc năm mươi thêm bốn tám,

CỐ sức tu hành trí vẫn minh.

NIỆM quá nửa đời không gián đoạn,

PHẬT rước con về, dạ quyết xin.

QUY mạng DI ĐÀ luôn khấn nguyện,

TÂY phương rày thoát kiếp phù sinh.

(Tám chữ đầu của tám câu thi trong bài thơ này hợp lại thành ra 8 chữ là:

GIÁC ÂN CỤ CỐ NIỆM PHẬT QUY TÂY

Và chúng con là các đệ tử, đồ tôn của cố Hòa thượng tôn sư ở Tucson, Arizona USA cũng xin chắp tay kính tiễn cụ cố về nơi An dưỡng).

Đến đây lại thêm một lần nữa chúng ta cung kính đảnh lễ cố Hòa thượng và dâng lên ngài lời chúc tụng rằng: Ngài đã làm tròn xong bổn phận của một người con có hiếu (nhất trên đời) theo đúng như lời Phật dạy là đã tiếp độ cho thân mẫu của mình được vãng sanh (về nơi Cực Lạc), dứt hẳn các nẻo luân hồi phiền lụy, khổ đau.

Bảo Đăng tôi cũng có sưu tập được thêm các bài thơ khác khen tặng cố Hòa thượng về việc đã tiếp độ cho thân mẫu của mình được vãng sanh như sau:

KHEN HÒA THƯỢNG

NGƯỜI CON CÓ HIẾU.

Báo đáp sanh thành, dưỡng dục ơn,

THIỀN TÂM, VÔ NHẤT mấy ai hơn.

Khuyến dắt song đường tâm đạo phát.

Niệm Phật A Di chí chẳng sờn.

Phương liên rước mẹ về An dưỡng,

Một sớm chào thầy đáo cõi chơn.

Nên hương kính lễ khen Hòa thượng,

Đạt đạo hiền tăng hiếu tử nhơn.

lành vậy thay,

Hòa thượng thật đúng là chơn hiếu tử. Là Phật tử tu học đạo mầu giải thoát, ta há lòng nào mà không noi theo gương đó hay sao?


PHẦN VIII: 
NHỮNG THỜI GIAN SAU CÙNG.

A. LỜI DI CHÚC CUỐI.

Từ sau năm 1989 tức là năm mà ngài đã báo đáp xong bổn phận làm con đối với thân mẫu rồi thì Hòa thượng bắt đầu lo cho việc hậu sự (ngày sau) của mình.

Bởi vì ngài biết rằng sau đây không bao lâu nữa mình cũng sẽ giã biệt cõi đời này. Ngài lần tay tính lại kể từ khi mình về lại trụ xứ Đại Ninh này cho đến nay, thắm thoát mà đã 21 năm qua rồi (1968-1989). Trong bài kệ tiên tri trước kia, đức Chuẩn Đề Bồ Tát có dạy rằng: Ngọt chua hai bốn chẵn …

Mà nay ta đã trải qua được 21 năm (ngọt chua) rồi, chỉ còn vỏn vẹn lại có thêm 3 năm “cay đắng mùi đời” nữa mà thôi. Từ đó trở đi, hơn bao giờ hết ngài tạ tuyệt tất cả trần duyên, bế quan và nhất tâm niệm Phật. Kể từ đây hàng tăng ni học chúng cùng các môn đồ, pháp quyến không còn được dịp gặp lại “từ dung” nữa, mọi người đều nôn nao, mòn mỏi và hết dạ trông chờ, hy vọng rằng một ngày nào kia không xa lắm sẽ lại tiếp tục được diện kiến và bái yết cha già cùng nghe những lời pháp nhủ đầy đạo vị của ngài dạy dỗ như xưa, sau khi ngài ra thất.

Trong hàng từ chúng vì có nhiều người, nhiều bụng dạ khác nhau nên đương nhiên là cũng có nhiều ý kiến thương ghét bất đồng, hoặc khen, hoặc chê hoặc là phiền trách ở nơi cố Hòa thượng, người khen thì nói rằng: Ông già (danh từ miền Nam dùng để gọi một bậc cha già đáng kính và có tánh cách thân thiện) là một người phi thường, tuyệt diệu, làm một việc mà không ai làm nổi, ấy là bó chân trong một gian thất nhỏ chưa đầy 20 thước vuông suốt mười mấy năm trời, chuyên tâm niệm Phật, không chừng ổng đã chứng được “Niệm Phật tam muội” rồi mà không ai biết đó, ổng dám sanh về Kim đài thượng phẩm lắm chớ không phải chơi đâu …

Người chê thì nói rằng: Ổng trốn tránh trách nhiệm thì có, chỉ biết lo an thân mình mà thôi còn sống chết mặc bây chớ có hay ho gì đâu. Nhập thất giả đó!!

Kẻ phiền trách thì nói: Ổng già chỉ biết lo tu giải thoát cho riêng mình mà thôi, mười mấy năm nay ổng bỏ Phật tử, đệ tử “cù bơ cù bất” sống vất vơ, vất vưởng trong các cảnh khổ sở hiện nay như đàn con mồ côi chết cha, chết mẹ vậy, nghĩ đến thiệt hổng thấy phục ổng chút nào hết!

Các lời khen, chê, phiền trách đại loại như thế rất nhiều không kể xiết được. Nhưng, như một ngọn núi to đứng vững vàng giữa cơn giông tố, thì một bậc đại sư phi thường như cố Hòa thượng vậy đối với các lời khen chê … kia nào có làm cho ngài buồn, vui hay đổi thay chí nguyện bao giờ. Việc ấy đã được chứng minh qua ý của đoạn thơ sau:

Ẩn tu quyết chí gạt trần tình,

Mặc nổi khen chê lẫn bất bình.

Sức yếu phải cam phần kém yếu,

Tình đời ví nhẹ, đạo tâm sinh.

(Ẩn tu ngẩu vịnh)

Lời và ý của ngài thật đã bày tỏ ra rõ ràng như thế bởi một khi đã ẩn tu rồi thì phải quyết tâm gạt bỏ trần tình. Còn nếu không (như vậy), kết quả cũng chỉ là có cái tiếng (ẩn tu) trống không mà thôi, tức là thân thì ở nơi Lan nhã (núi rừng) mà tâm thì vẫn cứ chạy chơi khắp nẻo đông, tây, ruổi dong nơi chốn thế tình của trường đời. Như thế thì dầu cho có ẩn tu đến trọn đời đi chăng nữa, rốt lại cũng chỉ là công “dã tràng xe cát” mà thôi, nào có ích lợi chi đâu cho sự giải thoát của riêng mình. Bởi lẽ nếu như tình đời có nhẹ thì đạo tâm mới được phát sinh – trái lại tức là tình đời quá nặng nề thì đạo tâm phải bị tiêu diệt.

Đó là định luật và cũng là lời dạy răn quý báu của các bậc cổ đức khi xưa để lại cho mình vậy.

Đạo An tổ sư có bài kệ rằng:

Ông đã xuất gia,

Xa lìa mẹ cha.

Cạo tóc hủy hình,

Khoác mảnh áo đà.

Ngày từ thân thuộc,

Lớn nhỏ lệ an.

Diệt tình vui đạo,

Chí cao thiên hà,

Học nghiệp cho mình.

Nếu còn đem tâm,

Theo đường sắc thinh.

Lửng lơ năm tháng,

Đạo nghiệp không thành.

Tu hành như thế,

Luống uổng kiếp sinh.

Ông đã xuất gia,

Nhẹ tình quân thân.

Phải nên cố gắng,

Chí nhìn thanh vân,

Xa bề danh sắc,

Xa thói phong trần.

Vàng ngọc chẳng quý,

Duy đạo là hơn.

Tu đức độ mình,

Độ khắp thế nhân.

Nếu như cải tiết,

Theo lối phong trần.

Ngồi chưa ấm chiếu,

Chạy khắp tây, đông.

Thân như sai dịch,

Danh lợi mê lòng.

Đức hạnh ngày tổn,

Tiếng xấu càng sinh.

Thầy bạn hổ thẹn,

Người tục cười khinh.

Tu hành như thế,

Luống thêm nhục mình.

Ông đã xuất gia,

Tối hoặc thông minh.

Bậc thượng thiền quân,

Bậc trung tụng kinh.

Bậc hạ gieo phước,

Chùa tháp kinh dinh…

Đâu nên hôm sớm,

Một việc không thành,

Tu hành như thế,

Uổng một kiếp sinh.

Mấy lời khuyên nhắn,

Chớ nên phụ mình…

Vì đã biết rõ các lời khuyên nhắc của tổ sư như vậy và vì chí cũng đã quyết tâm cầu giải thoát như vậy cho nên kể từ khi phát tâm tu học (1945) cho đến nay, cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm, Vô nhất đại sư, đã hành xử sự nghiệp tu tập của mình hoàn toàn khác biệt với những bạn đồng song, việc này từ lâu trong giới xuất gia, tại gia ai nấy cũng đều thấy rõ, ấy là:

– Trọn đời tu không chính dáng gì đến chính trị …

– Tu hành chỉ cầu giải thoát, ai gọi là cũng được, ai kêu bằng ông đạo cũng xong.

– Không mượn danh Tam bảo để tổ chức làm tiền, quyên góp …

– Dứt cả sắc, tài, danh, lợi, thị phi, mặc ai dèm siểm, đàm tiếu, chê bai.

(Thích Thiền Tâm Lời di chúc tối hậu sẽ in đầy đủ ở phần sau).

Do đó cho nên trên đường tu tập lúc nào cố Hòa thượng cũng luôn luôn “Hạ thủ công phu” chớ không chịu để phí thời giờ trôi qua trong tháng ngày quên lãng. (Chính vì vậy mà ngài mới về vùng lan nhã Phú An này hơn 20 năm trước cho đến nay (1989) và cũng kể từ đây 1989) Cho mãi đến khi chấm dứt cuộc đời 1922).

Kinh dạy:

Thân tứ đại vô thường, có sanh tất phải có già, bệnh, chết, không ai tránh khỏi – cho chí đến thân kim cương 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tùy hình của đức Thế Tôn mà cũng còn phải ở vào trong cảnh:

“Ta la thọ hạ – Đại bát Niết bàn” thay, huống chi nhục thân máu mạch, xương thịt của chúng sanh và riêng cho Hòa thượng Thích Thiền Tâm ư? Cho nên từ năm giữa 1989 trở đi, thân tứ đại của ngài bắt đầu vương mang ít bệnh, khi đau, khi mạnh, khi ốm, khi gầy. Bởi không như các quý Thầy khác ở chốn thị thành hay chùa to, đình rộng, có đầy đủ Phật tử hầu hạ, hôm sớm phụng cung, mà chỉ là một sơn tăng sống đời khắc khổ, ẩn tu nơi chốn núi rừng, cơm rau đạm bạc, thiếu thốn tứ sự cùng dinh dưỡng, thuốc men, thêm vào đó là vì đã trải qua mười mấy năm bế quan, nhập thất (kín) để tịnh tu, không thường xuyên đi lại bên ngoài, nên bịnh của ngài chỉ dần tăng mà thôi chớ không thấy có mòi thuyên giảm.

Việc thuốc thang điều trị thì phần lớn là do nơi sức tự lực phấn chấn để vượt qua bằng ý chí cương quyết và sức tâm lực của chính ngài – phụ trợ thêm vào đó là một số ít thuốc thang (Tây y) được một người cháu gái (gọi bằng chú ruột) từ bên Pháp gởi về, dựa vào số thuốc đó mà gởi tạm kiếp sống thừa để được nhất tâm tu niệm thêm trong những tháng năm cuối cùng của cuộc đời mình trên cõi thế. Ấy vậy mà ngài vẫn cắn răng, cố gắng khắc phục thân bệnh của mình chớ không tỏ bày ra hay than thở cùng với một ai hết cả.

Thật là cao thưọng vậy thay!

Trưởng tử kiêm thị giả là ni sư Thích nữ Thanh Nguyệt và một số đồ tôn thân cận đã không biết bao nhiêu lần cùng nhau cúi đầu dấu mặt, gạt lệ, khóc thầm, hết lời năn nỉ Hòa thượng xin cho phép đệ tử rước về bệnh viện lớn ở Sài Gòn để điều trị mà ngài vẫn một dạ cương quyết chối từ. Ngài thường bảo:

– Thân tứ đại hôi nhơ, rốt lại cũng về nơi quy tận. Chí của thầy không phải ở việc ham kéo dài mạng sống nơi chốn trần lụy này đâu. Các con phải nên hiểu như vậy.

Và các đệ tử, đồ tôn thân cận chỉ còn có một bề duy nhất là cúi đầu dấu lệ thầm khóc với nhau mà thôi.

Ngày tháng dần trôi qua, từ năm 1990 đến 1991 – bệnh của ngài mỗi lúc càng tăng – cũng như đạo lực của ngài mỗi năm càng tăng thêm tiến vậy. Mặc dù xác thân bị bệnh khổ dày vò, nhưng dung sắc của ngài lúc nào cũng vẫn sáng rực và trí huệ cũng vẫn tăng tiến phi thường.

Có một số ít quý vị tăng, tục duyên may được gặp gỡ cùng ngài vào giai đoạn này, trong khi hầu duyên không một ai dám ngờ và nghĩ rằng ngài đang bị bệnh trầm kha cả. Bởi vì các oai nghi và lễ tiết của ngài lúc nào cũng vẫn điềm đạm, khoan hòa như bình thường. Những lời dạy bảo và khuyên nhắc tu hành của ngài vẫn chí thiết, từ ái như bao giờ, mắt ngài vẫn rực sáng, thần sắc vẫn an nhiên.

Và đây cũng lại là một điều ly kỳ khác nữa của ngài vậy.

Vào khoảng cuối năm 1991 và đầu năm 1992 cơn bệnh của ngài đã có đôi phen nguy cấp, ni sư trưởng tử đã mấy lần lén ngài, cho mời một số bác sĩ từ Đà Lạt xuống và từ Sài Gòn lên (muốn đặt ngài trong thế đã rồi phải chấp nhận cho bác sĩ khám bệnh), vì đã theo hầu hạ mình (suốt hơn 30 năm) trước sau như một, nên ngài cũng tùy duyên (để cho các bác sĩ khám bệnh) nhưng sau khi khám bệnh xong rồi, tất cả đều đồng thanh nói rằng: không sao tìm ra được căn bệnh của Hòa thượng cả?!?

(Đến đây Bảo Đăng tôi nghĩ rằng chắc có lẽ quý độc giả ai cũng đều tự hỏi hai chữ: Tại sao? Hoặc là: ngài bệnh mà sao bác sĩ lại không tìm ra bệnh?

Ban đầu thì việc này cũng là một thắc mắc của người viết nữa. Sau đó Bảo Đăng tôi có thưa hỏi lên Đại Đức Bổn sư Thích Hải Quang duyên cớ, bởi vì Bảo Đăng nghĩ là thầy có thể sẽ hiểu rõ lý do hơn … và được thầy giải đáp như sau:

– Sở dĩ các bác sĩ khám nhưng không tìm ra được bệnh là vì ngài thường hay dùng sức định lực của chính mình để chế ngự căn bệnh. Trước kia, khi thầy (ĐĐ. Bổn sư) còn ở hầu bên cạnh cố Hòa thượng thì thỉnh thoảng ngài cũng có vương lấy một vài cơn đau nhỏ, lúc đó vì tình trạng thiếu thốn thuốc men nên ngài đã phải tự lực, phấn chấn để đè bẹp cơn đau xuống bằng cách dùng sức mạnh của “tâm lực” . Thí dụ như chỗ nào bị đau thì ngài định thần lại quán chữ “Rãm” màu xanh hiện ra ngay (chỗ đau) đó, từ nơi chữ rãm này, ngài lại quán tiếp nữa là có một tia nước cam lồ cũng màu xanh lưu xuất ra rửa sạch cái căn nguyên làm cho đau nhức ấy đi … và lần nào như thế cũng đều được hiệu nghiệm một cách lạ lùng là sau đó cơn đau bệnh ấy bị tan biến đi mất.

Từ đó về sau, vì tình trạng thiếu thốn thuốc men và dinh dưỡng vẫn mãi kéo dài, cộng thêm vào đó là sự khắc khổ hành trì trong đường tu tập, nên tháng lại, ngày qua … bệnh càng tăng nhiều hơn và cứ mỗi lần thân tứ đại của ngài bị các cơn đau nổi lên hành hạ là ngài lại dùng tâm lực và quán như thế để tự chữa trị.

Qua sức định lực này các cơn đau của ngài có thể được tạm thời ẩn mất trong một thời gian năm ba tuần lễ rồi mới tái phát và ngài cũng lại dùng sức định lực ấy để tiếp tục đè bẹp nó xuống nữa … cứ tiếp tục điều trị như thế chớ căn bệnh không dứt hẳn được, tựa như lấy đà chặn cỏ thì tạm thời cỏ bị đè nhẹp xuống nhưng không chết hẳn, sau một thời gian rồi cỏ sẽ mọc lên trở lại bệnh của ngài trong trường hợp này cũng giống như vậy.

Sở dĩ mà các bác sĩ không sao tìm ra được bệnh của ngài là vì nhằm vào trong thời gian (khám bệnh) đó, căn bệnh kia đã bị sức định lực của ngài làm cho tạm thời ẩn mất rồi nên y học và y sĩ không sao hiểu thấu và tìm ra được cả.

Đó là lý do “bệnh” mà xem như “không bệnh” của cố Hòa thượng vậy.

Khi Đại Đức Bổn sư giải đáp đến đây thì Bảo Đăng liền hiểu ngay vì có một vài lần chính Bảo Đăng cũng đã từng thử trị bệnh nhức đầu của mình bằng cách này (qua sự chỉ dẫn của thầy bổn sư) và thấy rất là hữu nghiệm).

Có một vài lần, giữa ni sư trưởng và các bác sĩ đã lén dấu ngài, đồng ý (nghéo tay nhau) ở bên thất của ni sư (cách thất của Hòa thượng trên 100 thước tây) là chích thuốc ngủ cho Hòa thượng (mà nói dối là thuốc khỏe) để làm cho ngài mê đi rồi sau đó khiêng đại ra xe, chở thẳng về bệnh viện Chợ Rẫy ở Sài Gòn cho có đầy đủ tiện nghi để (dễ bề) điều trị hơn. Bàn tính và cụ bị thuốc (ngủ) kim chích v.v… Đâu đó xong xuôi hết rồi mới cùng nhau kéo qua thất của Hòa thượng định bụng rằng sẽ giả bộ xin khám bệnh rồi nói là cần phải chích thuốc bổ để cho Hòa thượng được mau sớm khỏe mạnh. Nhưng khi tất cả bác sĩ vừa mới ngồi xuống, chưa kịp mở lời “mại hơi” thì ngài đã nói trước rằng:

– Các vị đừng nên làm như vậy, chớ gạt chích thuốc ngủ cho thầy mê đi mà đem ra khỏi thất chở về Sài Gòn. Thầy không đi đâu hết, bởi thầy đã nguyện nhập thất tịnh tu trọn đời rồi, thì dầu cho có sống chết gì đi chăng nữa cũng quyết lòng ở lại tại đây mà thôi. Tuy nhiên thầy cũng xin cám ơn lòng hảo tâm của quý vị.

Sau khi nghe Hòa thượng nói xong những lời đó rồi thì ai nấy cũng đều ngạc nhiên và hết hồn cả, không hiểu vì sao mà ngài lại biết rõ ràng cái “âm mưu bí mật” của chúng mình (mới vừa bàn) như vậy?

Sự việc tính toán không thành và sau đó mọi người đều rù rì với nhau là Hòa thượng có thiên nhĩ (lỗ tai thần) đó, nói gạt ổng không xong đâu vì ổng nghe biết hết.

Và đây cũng lại là một sự ly kỳ nữa (trong số rất nhiều việc lạ lùng khác) của cố Hòa thượng vậy…

Ngày tháng trôi qua, Hòa thượng vẫn lặng lẽ cố gắng khắc phục thân bệnh, tinh tấn trì niệm và tu hành nơi tịnh thất. Ngài dư biết thời giờ vãng sanh của mình sẽ không còn bao lâu nữa nên càng chuyên cần niệm Phật nhiều hơn. Ngài trông chờ một “Tin tức” trọng đại nhất sẽ đến với mình như các bậc tổ sư xưa đã từng mong đợi là:

Mảng tưởng ngày về chữa đến ngày,

Bên trời du tử mộng hồn bay.

Tỉnh mơ tiếng nhạn rơi đêm vắng,

“Tin tức” miền Tây chậm vãng lai?

(Sở Thạch lão nhân)

Và:

Đêm dài mộng nhớ về quê cũ,

Năm hết không quên phận lữ hành (1)

Mười vạn ức đường quê Cực Lạc,

Tấc lòng mang – mễnh những thâu canh

(Tư Tế lão nhơn)

Ghi chú:

(1) Lữ hành: Là khách đi chơi xa (trong sáu nẻo luân hồi) – đây là dụ cho chúng sanh cứ mãi bị trầm luân trong ba cõi, sáu đường.

Cuộc đời của ngài kể từ khi xuất gia cho đến nay (1945 -1942), đã sắp sửa đến thời điểm quyết định. Gần 48 năm dài trôi qua trong đường đạo, biết bao nhiêu nỗi buồn, vui, vinh, nhục, lên, xuống, bỗng, trầm, ngọt, chua, mặn, lạt chi chi lần lượt trước, sau thảy đều nếm đủ, có đôi lúc ngài mỉm cười như vừa nhớ lại một giấc chiêm bao! Hòa thượng đã gởi ý mình qua bài cổ thi sau đây:

Lữ khách nhớ quê An dưỡng,

Hủ nho ngụ bến sông Tương.

Chẳng quản ngày mai đắc thất,

Chỉ chờ TIN TỨC TÂY PHƯƠNG.

Thất nhỏ tùy duyên an ở,

Cơm rau đạm bạc quen thường.

Trâu ngựa mặc ai kêu gọi,

Trong lòng tuyệt niệm ghét thương.

(Thơ cổ đức)
Vô Nhất Tăng
Thích Thiền Tâm (dịch)

(Đại ý bài thơ này nói rằng: Ngài như người lữ khách (đi chơi xa trong sáu nẻo luân hồi) nhớ đến quê xưa (An dưỡng quốc Cực lạc giới) lại cũng giống như người đồ nhỏ già nơi bến sông Tương (tư) đêm ngày nhớ nhung về miền quê an dưỡng. Ngài chỉ có một niềm mong chờ duy nhất là: “TIN TỨC TÂY PHƯƠNG” tức là được đức A Di Đà Như lai thọ ký cho sanh về nơi Cực lạc mà thôi. Ngoài ra những chuyện khác như: Mất, còn, thương ghét, phỉ báng, rẻ khinh hoặc thậm chí đến cả việc kêu tên trâu, ngựa, chó, mèo ra để hủy nhục mình, tâm ngài cũng vẫn điềm nhiên không xao động.

Lành vậy thay.)

Và cái TIN TỨC TÂY PHƯƠNG ấy hình như đã có đến ngài rồi, hoặc ít ra cũng đã có lố dạng ở chân trời (TÂY) rồi chăng? Qua ý của bài thơ sau:

Ẩn tu trắc trắc lại bình bình, (1)

Niệm đạt vô tình lẫn hữu tình.

Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới,

Chân trời pháp nhãn lộ bình minh

Vô Nhất
Thích Thiền Tâm
(Ẩn tu ngẫu vịnh)

Ghi chú:

(1) Câu này ý nói khi có được ít thời giờ rỗi rảnh thì làm thơ (đường luật) để bày tỏ ý mình, hoặc khuyên tu, dạy đạo v.v… cho các hàng môn hạ.

Đến đây, qua bài kệ này, ta nhận thấy rằng sau 24 năm dài tịnh tu nơi miền lan nhã Phú An này (nói chung) và 17 năm bế quan (1975- 1992) để riêng tu môn “Niệm Phật tam muội” câu niệm Phật của ngài nay đã kể lại được thành một khối “nhứt tâm” qua câu: “Niệm đạt vô tình lẫn hữu tình”. Hai chữ NIỆM ĐẠT trên đây đã tiết lộ ít nhiều cho các môn đồ, pháp quyến biết rằng:

– Sau 17 năm chuyên tâm trì niệm, môn tu NIỆM PHẬT TAM MUỘI của ngài đã được đạt thành rồi vậy.

Và vì thế nên nơi phương trời Tây xa xôi diệu vợi kia, cách đây quá mười vạn ức Phật độ, nay đã hiện lên ánh sáng “bình minh” tươi đẹp. Ánh “Tây minh” rực rỡ đã lộ bày, pháp nhãn của ngài đã mở khai, tin tức thời Tây cũng vừa nhận được. Với pháp nhãn ấy ắt hẳn ngài đã thấy được đức A Di Đà từ phụ cùng chư thánh chúng quang lâm đến an ủi và thọ ký cho Tây quy rồi chăng?

Chắc chắn là như vậy, bởi vì qua bài kệ thứ 108 cuối cùng trong tập “ẩn tu ngẫu vịnh” của ngài, đã có tiết lộ ra cái “mật ý” ấy như sau:

Ẩn tu trì niệm tháng năm qua,

Đạp lối sen thanh trở lại nhà.

TIN TỨC NGÀY NAY VỪA THẤY ĐƯỢC,

Tiếng chuông sơn tự bóng trăng tà!

Ôi! Vô Nhất Đại Sư Thích Thiền Tâm sau những tháng, năm dài trôi qua trong sự chuyên tâm trì niệm, nay ngài sắp sửa theo lối sen thanh trở lại quê nhà (2) đã xa cách tự bấy lâu nay rồi, “TIN TỨC” từ nơi Đức cha lành A Di Đà Phật dành riêng cho ngài, nay ngài cũng đã thấy lại được rồi, 68 năm dài nhục vinh trên cõi thế của ngài giờ đây sắp sửa trôi qua, ngước mắt nhìn lên thì bóng thiêm cung đã bắt đầu xế dạng, nơi sơn tự Hương Nghiêm, tiếng đại hồng chung văng vẳng lại, có phải chăng đó là điềm báo trước cho ngày “ứng tận hoàn nguyên” của VÔ NhẤT ĐẠI SƯ, Thích Thiền Tâm Hòa thượng sắp đến hay chăng?

Ghi chú:

(2) Quê nhà đây là cõi Tây phương Cực lạc, nơi mà người tu Tịnh Độ hằng luôn mong mỏi được sanh về.

Kính bạch Hòa thượng,

Đàn con đại chúng con rồi sẽ ra sao đây nếu một mai vắng bóng của ngài và nơi đường trần dẫy đầy chông gai, khổ lụy này, ai sẽ là bậc minh sư, thiện hữu, thay thế ngài dìu dắt chúng con đi?

Nam mô từ mẫn cố, đại từ mẫn cố.

Khoảng giữa tháng 7 Âm lịch năm Nhâm Thân (1992) (trước ngày vãng sanh gần 5 tháng) Hòa thượng đã biết chắc chắn rằng ngày quy Tây của mình sẽ không còn bao lâu nữa, vả lại căn bệnh trầm kha từ bấy lâu nay cũng đã làm cho xác thân tứ đại của ngài gần như muốn mỏi mòn rồi.

Do vì như vậy nên ngài muốn dành hết tất cả thời gian còn lại cực lực chuyên tu hơn nữa để riêng cho phần tư lương của mình nơi chín phẩm sen càng tăng được thêm nhiều. Ngài e rằng khoảng thời gian ít oi còn lại này bị lãng phí đi nên khước từ hết mọi tiếp xúc với ngoại duyên, lại thêm e rằng tứ chúng mượn có mãn hạ để đến thỉnh cầu xin được viếng thăm, chúc tụng khánh tuế v.v… Nên từ trong tịnh thất ngài viết ít dòng thư gởi ra cho quyền trụ trì Hương Nghiêm tịnh viện là Thượng tọa TOẠI CHÂU cáo bạch miễn lễ cho đại chúng. Kế tiếp sau đó vào ngày mồng 2 tháng 8 Âl. Ngài vì lòng bi mẫn, xót thương cho các hàng học chúng cùng chư Phật tử đời nay bị cuốn lôi vào trong cảnh:

Ẩn tu uổng tiếc bạn đồng hành,

Nói lý cao huyền, đắm lợi danh.

Già bệnh, đọa sa không phản tỉnh,

Bóng câu mấy nổi thoáng bên mành.

Và:

Ẩn tu xót kẻ học Như lai,

Thiền tịnh, thị phi, chấp trước dày.

Kiên cố, đấu tranh đà hiện rõ,

Đạo, đời phân hóa: cảnh thời nay!

Liên Du Vô Nhất
Thích Thiền Tâm
(Ẩn tu ngẫu vịnh)

Nên một lần nữa và cũng là một lần cuối cùng, từ nơi tịnh thất ngài viết gởi ra (và lưu hậu lai một bức thư cuối cùng cho các hàng môn hạ mà trong đó ngài vừa dạy khuyên, vừa răn nhắc, vừa cảnh tỉnh, vừa sách tấn tu niệm, lời và ý cực kỳ tha thiết, ân cần đến chư đại chúng như sau:

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

Kính thưa đại chúng,

Tôi bẩm chất gầy yếu, trong vài năm trở lại đây, tinh thần cùng sức khỏe thật ra đều suy kém. Vì ngại cơn vô thường chợt đến, nên nguyện an thất tịnh dưỡng, trì niệm cho mãn kiếp gởi tạm sống thừa! Trước kỳ tự tứ vừa qua, vào ngày 12 tháng 7 Âl năm Nhâm Thân 1992, Tôi có viết thư cho thầy Minh Tánh và Toại Châu nhờ thầy thay lời, xin đại chúng gồm chư Đại Đức Tăng ni và Phật tử, vui lòng thứ miễn cho việc tiếp xúc cùng làm lễ khánh tuế sau khi mãn hạ. Nhưng khi hỏi lại, thì thầy Toại Châu nói đã đánh mất bức thư ấy, nên chẳng tuyên bố. Do đó mà nhiều người đến thăm không được gặp, nên sanh lòng phiền muộn.

Kỳ Bồ Tát vừa rồi Sư Cô Phương Liên (Thích nữ Thanh Nguyệt) có nhắc qua việc ấy (2-8-1992) nhờ thầy Toại Châu trùng tuyên lại những lời của tôi, mà thầy cũng quên luôn. Trong ngày giỗ Tổ này e đại chúng trách rằng: Tôi bỏ quên, không để tâm nhắc nhở, nên xin có ít lời khuyên tấn, tạm gọi là giữ cho xong phần nào vai trò của người lớn trong đạo. Nhưng vì còn lo thầy Toại Châu đau yếu, rồi quên trước quên sau, nên nhân tiện nhờ Sư Cô Phương Liên (Thích nữ Thanh NguyỆt) là người thân cận (Trưởng tử tôi) thay nhọc chư tăng ni, đọc qua mấy lời phụng khuyến cho đại chúng được rõ:

Thưa chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni, cùng chư quý Phật tử …

Trước tiên, tôi kính thăm tất cả đều được an lành và siêng năng tiến đạo. Thứ đến, xin có đôi lời phụng khuyến:

Từ xưa đến nay, trong nhà chùa vào trong những ngày vía Tổ chư Tăng Ni thường có lời phục nguyện:

“Tông phong vĩnh chấn,

Tổ ấn trùng quang”.

Nói riêng theo pháp môn “NIỆM PHẬT” tức là nguyện cho tông “TỊNH ĐỘ” do chư Tổ tuyên dương, được chấn chỉnh và hưng thạnh phải như thế nào? Tôi xin nêu ra mấy chi tiết. Như trong “Bồ Tát Giới Kinh” đã dạy: “Già chết gần kề. Phật, pháp sắp diệt. Các Phật tử vì muốn đắc đạo phải nên nhứt tâm cần cầu tinh tiến”. Câu kinh này đưa ra ba điều kiện:

1. Phải nghĩ đến sự già chết gần kề.

2. Phải thương lo cho Phật pháp suy vong sắp diệt.

3. Phải siêng năng tinh tiến tu hành.

Giữ được ba điều kiện ấy, tức có thể làm cho: “Tông phong vĩnh chấn Tổ ấn trùng quang”.

Về điều thứ nhất:

– Kiếp người giả tạm, nào có bao lâu? Trong ấy biết bao nhiêu sự vui buồn, nhục, vinh, lo phiền, nhọc nhằn, già yếu, đau bịnh! Nếu ta không nghĩ đến thân người mong manh nhiều khổ lụy, mà cố gắng tu thiện, cứ mãi tạo nghiệp, để rồi bị chìm đắm, có phải là hờ hững mê lầm chăng?

Về điều thứ hai:

– Đức Phật ra đời và chánh Pháp của ngài rất khó gặp, như hoa “Ưu Đàm Bát La” trong thời kiếp lâu xa, mới nở một lần. Nay đã đi sâu vào buổi mạt pháp, đạo Phật sắp suy tàn rồi ẩn một. Chúng ta là hàng con Phật, phải kính mến thương lo, hộ trì mối đạo và muốn cho đạo pháp trường tồn, phải thương xót nâng đỡ nhau, đừng vì lợi quyền danh vọng, hoặc tài, sắc, mà bôi nhơ, tàn hại lẫn nhau.

Kinh Phạm Võng nói:

“Phật pháp không phải thiên ma, ngoại đạo có thể hủy phá, chỉ có người con Phật, mới phá hoại được mà thôi!”

Đau buồn thay!!

Điều này hiện nay, khắp nơi đã nhan nhãn thấy xuất hiện. Các bậc hữu tâm trong đạo thấy thế chỉ còn biết yên lặng ngậm ngùi!

Nhớ lại thời cận đại ở nước Việt Nam ta, có hai bậc túc nho vừa có tài danh, lẫn đức hạnh. Vì thấy luân thường đảo lộn, nho giáo suy đồi, hai vị ấy, đành cam bề ẩn dật. Nhưng đã có danh đức, tất có nhiều người tìm đến, nên cũng vì thế mà bị người ganh ghét bôi nhơ! Những kẻ làm việc đó, là người trong đạo KHỔNG mà mỉa mai thay! phần đông lại là hàng mô đệ của hai bậc tôn túc nho kia! Sau khi được người thuật lại đầy đủ về việc hủy báng ấy, trong hai bậc lão nho, một vị mĩm cười khẳng khái nói:

“Rắn rết gớm ai lòng độc kia!

Rồng mây phó mặc chuyện huyên thiên”

Còn một vị kia chỉ rơi lệ bảo:

“Việc đời thà khuất đôi con mắt,

Lòng đạo xin tròn một tấm gương”.

Nơi đây, ta nhìn xét thấy hai trạng thái:

“Một nụ cười can đảm, an nhẫn, bất chấp, gác qua mọi chuyện thị phi …

“Và một nét khóc, thương xót ai mê lầm gây tội lỗi mà mình bất lực không thể can ngăn, khuyên bảo, cứu vãn được, chỉ còn biết tự tỉnnh, bền giữ đạo tâm, như gương tròn sáng.

Nụ cười cùng tiếng khóc, của hai bậc lão nho xưa, đã hàm ẩn đầy đủ tinh thần BI – TRÍ – DŨNG của đạo Phật, thật đáng cho hàng Phật tử, chúng ta phải suy gẫm.

Còn về điều thứ ba:

Thì ý kinh, khuyên ta phải siêng tu. Siêng tu đây, không phải chỉ tụng kinh, niệm Phật, để khoe số nhiều, mà tụng niệm với tâm thanh tịnh, an lành, với lòng chí thành trong sáng, mới được diệt tội sanh phước.

Lại chẳng phải chỉ có tụng niệm suông, mà phải giữ tâm niệm, lời nói và hành động, theo điều giới thiện Như thế, mới xứng hợp là người tu Phật. Và tu như thế mới mong có ngày được lên bờ giải thoát.

Trước khi dứt lời, để tóm lược, tôi xin trân trọng nhắc lại cùng đại chúng ba điều trên là:

1. Phải nghĩ đến sự già, chết, vô thường.

2. Phải thương mến đạo, biết nâng đỡ nhau.

3. Và phải biết siêng năng tu tập.

Nếu trái với lời kinh dạy, thì ngôi nhà Phật, Pháp sẽ bị sụp đổ, bởi sự hủy phá của những người mang danh nghĩa là hàng “CON PHẬT”. Những vị chân tu, tự nhiên phải thật hành theo ba điều kiện trên.

Còn trái lại, những kẻ giả tu, muốn nhận diện cũng không khó, quý vị chớ vội nghe lời trau chuốc bên ngoài, hãy xét kỹ, nơi ngôn ngữ… cùng hành động của họ, tự khắc sẽ biết.

Xin Kính chúc chư Thượng Tọa, Đại đức Tăng Ni, chư quý Phật tử, một mùa kỷ niệm Tổ, đầy tình thương và đạo hạnh.

THÍCH THIỀN TÂM

TB: Bức thư này nên tùy phương tiện đọc cho những vị hữu duyên nghe mà thôi!

Những kẻ vô duyên, chắc họ không tỉnh ngộ, trước lời thiết tha khuyên nhắc!!!

Các vị Lão thành xưa thức lượng sâu xa, cũng đều phải cam bề ẩn mình giữ đạo, trước tình thế không thể khuyên ngăn được.

Thầy cũng không hơn nổi những bậc tiền bối ấy đâu.

(Trên đây là thủ bút và chính chữ ký của cố Hòa thượng nơi phần cuối thư. Bảo Đăng tôi xin in vào đây để quý đọc giả và riêng cho các hàng môn hạ thấy lại được nét chữ của tôn sư (để mà thêm thương nhớ). Nét bút hơi run của tôn sư ở đây chứng tỏ rằng sức khỏe của ngài trong giai đoạn này đã yếu kém đi nhiều).

Qua bức thư này chúng ta nhận thấy một vài điều quan yếu như sau:

– Lúc nào ngài cũng tha thiết nghĩ thương đến đạo, muốn cho đạo giáo được miên viễn trường tồn.

– Mong sao cho chư tăng ni (nói chung) và các hàng môn đệ phải nên phát tâm chân thật, cố gắng tu hành, cầu chơn giải thoát, lìa bỏ lợi danh.

– Trước tình thế đạo pháp bị hủy phá, tan nát hiện nay do chính những người mang danh nghĩa là “Phật tử”, là “Như lai sứ giả” v.v…, ngài tự lượng sức mình không thể nào khuyên ngăn được nên thà là khuất mình (ở ẩn) để tự giữ tròn đạo hạnh mà thôi.

Và xưa nay các hàng thánh tăng cũng đều làm y theo như vậy.

– Như ngài Ma ha Ca Diếp (tổ thứ nhất) ẩn mình trong núi Kê Đầu (sơn) (Tức là núi Linh Thứu).

– Ngài Tân Đầu Lô Tôn giả – ngài Bồ Đề Đạt Ma (tổ thứ 28) và còn biết bao nhiêu là các bực chân tăng, hiền thánh khác nữa… cũng phải cam chịu ẩn mình nơi rừng sâu, núi vắng, giữ phận tu hành trong thời buổi mạt pháp nói chung và riêng cho giai đoạn “đấu tranh kiên cố” này.

– Tại sao thế?

Bởi vì thế lực của những kẻ bạo ác quá mạnh cho nên thế lực của người hiền đức phải bị lu mờ đi. Đó là lẽ đương nhiên. Từ ngàn xưa vẫn thế.

Cố Hòa thượng đây cũng chẳng còn biết phải làm gì khác hơn là ẩn mình tu tập, cho tròn sự nghiệp giải thoát vậy mà thôi.

TẤN PHONG TRƯỞNG TỬ VÀ DI CHÚC TỐI HẬU

Theo như thông lệ “chúc hậu” từ ngàn xưa đến nay, đời hay đạo chi cũng vậy:

– Nghĩa là một bậc trưởng thượng nào đó, trước khi biết mình sắp sửa cởi hạt quy tiên hay chuẩn bị đáo đầu về nơi tử tận (chết đi) thời thảy đều có tổ chức một buổi lễ tấn phong, và chỉ định cho người xứng đáng sẽ được kế vị mình mà lãnh phần di chúc.

Như ở ngoài đời, cha mẹ trước khi chết thì giao gia sản lại cho con. Vua trước khi băng hà thì chỉ định và tấn phong cho đông cung thái tử. Còn ở trong đạo, như Nho giáo chẳng hạn thì lập đệ tử trưởng tràng để thay quyền mình giáo hóa môn đệ v.v…

Phật giáo ta ắt hẳn cũng phải theo như thông lệ ấy – nghĩa là chỉ định (huyền ký) người kế nhiệm cho mình, như Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật trước khi nhập Niết Bàn đã huyền ký bổ xứ lại cho ngài TỪ THỊ BỒ TÁT kế tiếp mình thành PHẬT nơi cõi TA BÀ này là DI LẶC PHẬT. Các chư Thế tôn khác trong khắp 10 phương cũng đều đồng hạnh như vậy cả trước khi vào trong biển cả “đại bát niết bàn”.

Ở đây, nơi Hương Nghiêm tịnh viện và Phương Liên tịnh xứ, Mật Tịnh đạo tràng tại thôn Phú An, Đại Ninh này, Mật Tịnh tông chủ: VÔ NHẤT ĐẠI SƯ THÍCH THIỀN TÂM Hòa thượng cũng y theo như thông lệ đó mà chỉ định và tấn phong trưởng tử, giữ phần chúc hậu trước khi ngài viên tịch về cõi vô sanh.

Vì vậy cho nên vào lúc 11 giờ 30 phút trưa ngày 12 tháng 10 dl năm 1992 (tức nhằm ngày 17-9 Âl năm Nhâm Thân) tại Phương Liên Tịnh thất, ngài cho triệu tập các môn đồ, pháp quyến thân cận lại, tổ chức một buổi lễ nhỏ: Tấn phong trưởng tử, tiếp nhiệm chức vụ chưởng môn (nhân) và lãnh tờ chúc hậu.

Suốt bốn mươi tám năm trong đường tu và hơn 30 năm hóa đạo, qua cương vị của một tôn sư, trước sau các hàng đệ tử xuất gia, cầu pháp, y chỉ, học chúng, thế độ v.v… của ngài lên đến số hàng ngàn vạn người ở khắp mọi nơi trong nước, có người đã và đang đảm nhận những chức vụ quan yếu trong giáo hội, hoặc là lãnh đạo các hội đoàn Phật giáo, tọa chủ các chốn già lam, nắm giữ các cơ sở Phật giáo v.v… (trong cũng như ngoài nước và khắp cả năm châu).

Số đệ tử thì thấy đông và nhiều như vậy, mới thoạt nghe qua chắc ai cũng phải nghĩ rằng có lẽ ngài thuộc về loại người: “Nhứt hô bá ứng” (Một tiếng kêu thì có cả trăm tiếng (đệ tử ruột) dạ) nhưng thật ra thì “Thấy vậy mà không phải vậy” đâu.

Trong quyển “Ẩn tu ngẫu vịnh” của ngài, Bảo Đăng tôi có đọc và thấy một bài kệ (số 11) sau đây:

Ẩn tu cửa đạo trải bao năm,

Kinh nghiệm nhiều phen vẫn lạc lầm.

Quen lắm lại càng thêm việc lắm,

Cung đàn, hạt ý mấy tri âm.

Dựa vào ý của bài kệ này mà bàn rộng ra thì chắc có lẽ ngài cũng đã từng bị nếm nhiều “cay đắng mùi đời” từ nơi các bạn cùng tu và các đệ tử lắm rồi thì phải (?) cho nên ngài mới tự than rằng:

Kinh nghiệm nhiều phen vẫn lạc lầm,

và:

Quen lắm lại càng thêm việc lắm…

Ba chữ: “Thêm việc lắm” ở đây, ta phải hiểu là “Thêm rối rắm”, “lộn xộn lắm” … Nay cứ tạm suy phận ta ra (phận người) thì ắt sẽ hiểu được phần của ngài. Như Bảo Đăng tôi đây nhiều khi cũng đã phải “ngậm ngùi cười ra nước mắt” trước các người quen, bạn bè và các bậc đàn anh, đàn chị lắm! Gần 10 năm làm Phật sự, lắm lúc đã từng bị lâm vào cảnh:

Giang hà nhật hạ nhơn giai trược,

Thiên địa lô trung thực hữu tình?

Tạm dịch:

(Nước sông càng đục, người càng xấu,

Trời đất tìm đâu bạn chí trung?)

Hoặc là:

Thôi thà đừng biết cho xong,

Biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.

Và:

Chuyện đời thà khuất không nghe biết,

Đóng cửa cài then chẳng muốn trông...

Xưa nay, thế tình (cả đời và đạo chí cũng vậy) vẫn y như rứa, nào khác chi đâu! không riêng gì Bảo Đăng tôi hay là cố Hòa thượng bị khổ sầu thôi. Mà một số các bậc hiền triết, cao minh khi xưa cũng đều than thở giống nhau như thế. Chẳng hạn như hai câu kệ sau đây:

Thùy nhơn hậu bối vô nhơn thuyết,

Na cá nhơn tiền bất thuyết nhơn …

Tạm dịch

Chớ nói ta không người chỉ trích,

Âm thầm chi thiếu kẻ gièm pha.

Trước mặt cúi đầu thưa, dạ, bẩm,

Sau lưng kêu chửi mẹ cùng cha!…

– Thế cho nên: Càng quen biết nhiều bao nhiêu thì phiền não cũng càng theo đó mà “tăng trưởng: và “tiến bộ” thêm bấy nhiêu mà thôi, chớ chẳng được mấy ích lợi gì!

Vậy phải làm thế nào để tránh “Nó” đây?

Thôi thì thà (Noi theo gương của cố Hòa thượng là):

Ẩn tu an tính chốn cao nguyên,

Hoa cảnh, lòng trăng, đẹp diệu huyền.

Mây núi điệp trùng đêm tịch tịnh,

Câu kinh, tiếng Phật lại triền miên.

Thích Thiền Tâm
(Ẩn tu ngẫu vịnh)

Trở lại việc cố Hòa thượng có ý muốn tuyển chọn trong số các hàng môn đồ thân tín của mình để tìm ra một người xứng đáng hầu tấn phong làm trưởng tử, kế vị chưởng môn.

Sau khi sàng, sải, lọc, lừa khắp trong tất cả các hàng môn đệ gần xa xong rồi, ngài chỉ chấm được có một người duy nhất (độc nhất vô nhị) mà thôi.

Vị được xứng đáng tuyển chọn là: người mà đã từng là đệ tử, thị giả và theo hầu cận bên ngài suốt cả 30 năm qua, đã không biết bao nhiêu lần đem thân của mình ra làm một “cái mộc sống” để “đỡ đạn” cho ngài an bề tu tập và cũng vì ngài mà cam tâm gánh chịu ngàn, muôn cay đắng, khổ sầu, ấy thế mà lòng của người trước sau vẫn an nhiên không hề một lần hé môi than thở. Trong tất cả mọi hoàn cảnh buồn, vui, sướng, khổ, mặn, lạt, chua, cay, bình an, hay hoạn nạn chi chi … người ấy vẫn một lòng, một dạ với thầy trước sau như nhứt.

Đó là: Ni sư THÍCH NỮ THANH NGUYỆT

được trúng tuyển một cách oanh liệt, thượng hạng, ngoại hạng, siêu việt ngạch trật thông thường.

Đến đây, kể ra thì chắc có lẽ các nam đệ tử (bên Tăng) cũng cảm thấy buồn, tự ái và bất mãn khi tự hỏi rằng:

– Tại sao Hòa thượng lại không chọn nam (Tăng) mà chọn nữ (Ni) để tấn phong trưởng tử và kế vị “chưởng môn”? Bộ bên Tăng hết người (xài) rồi sao? Nhưng sự thật đã như vậy rồi thì còn biết làm sao hơn bây giờ! (tức là không tìm ra một vị (tăng) nào để chấm đậu được cả).

Thôi thì ngài đành phải hành xử theo câu:

– Vô nam, dụng nữ – Vô tử dụng tôn” vậy.

(Không chọn ra con trai được thì chọn con gái kế truyền, còn như trong hàng con trai, con gái mà không chọn ra được ai hết thì chọn ở trong hàng cháu), thế mà xong.

Là một người có trí, hiểu được việc xa gần, ngài tiên đoán rằng trong tương lai, sau khi ngài mãn phần rồi, thế nào vị “ni sư trưởng tử” này cũng phải bị lâm vào trong cái cảnh:

– Bị phủ nhận, không tin tưởng (là sự thật, là truyền nhân giữ y bát của ngài) từ nơi các hàng tăng, ni đệ tử (ganh tị) khác, hoặc bị vu báng, hoặc bị lâm vào cảnh “ỷ chúng, hiếp cô” hay bị cảnh “chúng khẩu đồng từ, sư ông cũng chết” (Trăm ngàn miệng đồng nói ra một lời giống như nhau thì Sư Ông cũng phải chết) huống hồ chi là một Sư Cô (còn nhỏ tuổi) như ni sư Thích nữ Thanh Nguyệt vậy!!

Vì thế cho nên hôm nay sẵn có đại chúng chứng minh trong buổi lễ “Tấn phong trưởng tử” này nên ngài cho lập ra tờ “Nhân chứng” sau đây (để bảo vệ cho vị liễu bồ nhơn trưởng tử của mình sau này).

TỜ NHÂN CHỨNG TRONG LÚC LẬP DI CHÚC

Chúng tôi đứng tên dưới đây: là những Phật tử thuần hành của Sư Ông Hòa thượng Thích Thiền Tâm đồng chứng kiến sự việc như sau:

Vào lúc 11 giờ 30 phút trưa ngày 12 tháng 10 năm 1992, tại Tịnh thất Phương Liên, nơi Sư Ông Thích Thiền Tâm an thất. Sau giờ thọ thực Ngọ, Hòa thượng cho gọi đại chúng họp mặt để chứng kiến Sư Ông lập tờ Di chúc và ký tên, rồi giao quyền thừa hành tờ di chúc này cho Ni sư Thích nữ Thanh Nguyệt và nhìn nhận rằng: Ni sư Thanh Nguyệt là Trưởng tử của ngài.

Trong lúc lập tờ Di chúc này, chúng tôi thấy sức khỏe Sư Ông hơi kém, nhưng tinh thần rất minh mẫn. Tờ Di chúc lập xong vào lúc 2 giờ chiều cùng ngày.

Chúng tôi cam đoan những vấn đề nêu trên là sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Tịnh thất Phương Liên, Phú Hội ngày 12/10/1992

Đồng ký tên.

1. Quách Văn Anh, CMND 022882466 cấp ngày 08/10/1991 tại Công an huyện Nhà Bè.

2. Nguyễn Văn Đáng, Pd: Ngộ Giải, CMND 020349056 cấp ngày 30/8/1978 tại CA Quận 4.

3. vv…

LỜI PHỤ THÊM: Cũng may là nhờ ngài tiên đoán được trước các sự việc như thế, ấy vậy mà sau những ngày lo hậu sự của cố Hòa thượng xong rồi, vị ni sư trưởng tử này cũng vẫn bị không biết bao nhiêu là búa rìu, bầm dập. Đã có nhiều người đứng ra vỗ ngực xưng tên là truyền nhân, là trưởng tử, là đích tử, là đệ tử thế độ được ngài cưng quý nhất v.v… Thậm chí cả đến việc dối mượn danh nghĩa giáo hội, tụ tập lại, chọn người và tự ý tấn phong trưởng tử cho riêng phe nhóm của họ và lập ra tờ Di chúc (thứ hai) giả mạo, cùng rỉ tai và tuyên truyền khắp cả mọi nơi với mục đích là nhờ dư luận bên ngoài, (vốn không biết rõ về sự việc trong nội bộ) để phủ nhận vị truyền nhân, đích tử chơn thật này của ngài.

Ôi! chẳng qua cũng chỉ vì một chữ “DANH” phù phiếm, hão huyền đó mà thôi! Thật là đáng buồn, đáng tiếc thay cho danh vị của người xuất gia trong thời buổi mạt pháp này!!

TỜ CHÚC THƯ CUỐI CÙNG
VÀ CÁC LỜI
DI CHÚC TỐI HẬU

Song song với việc nhìn nhận và tấn phong trưởng tử này, cố Hòa thượng cũng đã có cho lưu bố một bản chúc thư tối hậu để làm minh lại những điều tâm nguyện của ngài mà tự bấy lâu nay ngài vẫn chưa hề bày tỏ, cùng với những lời dặn dò, phú chúc hậu sự của các sự việc (sẽ xảy ra) sau ngày mình (Hòa thượng) viên tịch.

Tờ di chúc này gồm có cả thảy:

1. Bảy điều quan trọng về việc minh xác lập trường của ngài từ khi mới bắt đầu đi tu cho đến lúc sắp sửa mãn phần.

2. Ba điều dặn dò về các việc hậu sự (mai táng) cho ngài sau khi tạ thế.

Và sau đây là nguyên bản “chúc thư văn” tối hậu của ngài:

LỜI DI CHÚC TẠM

Đề bút:

Tuyền nhiễu sơn hoa thào mộ nhàn,

Huyễn thân hà sự hựu đa đoan?

Ưng tri vô tận trầm luân hải,

Vị xuất luân hồi khổ diệu mang!

Tôi tăng sĩ Thích Thiền Tâm, pháp hiệu Vô Nhất, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, hiện cư ngụ tại tịnh thất Phương Liên I, thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

Nay tuy tôi thường đau yếu, nhưng tâm não còn minh mẫn sáng suốt, xin viết di chúc tạm gồm mấy điểm để phú chúc lại cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia.

Nói di chúc tạm, vì thấy một số tăng ni cho đến cư sĩ: Kẻ đã có chùa, thất vì uy tín không bằng, nên ganh tỵ cố ý phá hoại dìm xuống cho bản thân được nổi lên, dù đối tượng là bậc Thầy Tổ đã từng dạy dỗ mình. Hoặc người chưa đủ tư cách để làm đệ tử cầu pháp hay xuất gia, vì bị phủ nhận nên cũng sanh tật đố ganh đua. Họ liên kết nhau, tìm đủ cách tố cáo hủy phá, tung ra nhiều tin thất thiệt như: Phá trai, phạm giới, liên hệ với các hàng ngũ chánh trị khác, tuyên truyền mê tín dị đoan, trị bịnh, soi căn, đoán kiếp, nói quá khứ vị lai, …

Nay tôi xin tỏ bày tâm nguyện, gồm mấy điều đại khái như sau:

I. Trọn đời tu, nguyện không dính dáng đến chánh trị, không để ai lôi cuốn vào chánh trị, bởi sức khỏe suy kém, và đó không phải là khả năng của mình.

II. Chỉ mong được yên ổn tu hành để cầu giải thoát, ai gọi là Hòa thượng cũng được, ai kêu ông đạo cũng xong.

III. Không mượn danh Tam Bảo để tổ chức làm tiền, hoặc quyên tỏi đóng góp, mỗi ngày được ăn rau luộc cơm thì là đủ.

IV. Dứt cả sắc, tài, danh, lợi, thị phi, mặc ai dèm siễm, đàm tiếu, chê bai, vì những điều đó không liên hệ gì đến sự giải thoát.

V. Không ra làm Phật sự với giáo hội nào nữa, vì mình bẩm sinh gầy yếu, nay đau mai bịnh, không còn đủ sức hoạt động. Vả lại trước kia đã có thời gian dạy dỗ chư tăng, ni diễn dịch kinh sách, khuyên tu để đền đáp sự cúng dường của hàng tín chúng tự nghĩ đã làm Phận sự báo ân tam Bảo rồi.

VI. Sau khi tôi mãn phần, mọi việc hậu sự đều do trưởng tử của tôi là Ni sư Thanh Nguyệt sắp đặt. Chư tăng ni khác hoặc thuộc tịnh viện Hương Nghiêm không được quyền can dự vào lấy cớ đem về tịnh viện xây thất thờ cúng để làm bình phong cầu danh lợi. Bởi họ chỉ: học chúng tạm nương nhờ, không phải là đệ tử thế tôn xuất gia, cũng không phải là đệ tử cầu pháp, vì nếu đệ tử cầu pháp, phải có pháp phái do tôi ký tên chứng nhận. Tôi cất chùa cho họ ở, họ lại nhờ uy tín của tôi mới được sự cúng dường để tu học nên không có quyền mượn danh nghĩa của tôi để bành trướng rồi lần lần chiếm luôn Tịnh viện. Việc xây cất tu viện cả Hòa thượng Bửu Huệ và Bửu Lai chỉ là người hỗ trợ trên danh nghĩa, bởi mỗi vị đã có chùa chiền đệ tử riêng, sau đều xin rút lui giao lại cho tôi, vả lại hai ngài cũng đã viên tịch rồi.

VII. Khi tôi viên tịch, bởi nghĩ mình kiếp trước đã tạo lắm nghiệp duyên, nên nay mới bẩm sanh suy yếu, ý chí muốn theo gương điểu táng ở Tây Tạng.

Tôi xin chia làm tam sách như sau:

1. Thượng sách là đem xác thân để tựa cách rừng hoang bố thí cho loài chim, thú, hoặc treo đá dìm xuống vực sâu bố thí cho loài thủy tộc, để đền trả nghiệp đời trước.

2. Trung sách là bó chiếu chôn sâu, khỏa bằng để chỗ trồng thơm, chuối cũng có lợi cho người.

3. Hạ sách, nếu hàng đệ tử không nỡ làm như vậy, nên đóng sơ mấy tấm gỗ thông, bên trong độn lá chuối, trên để tấm pháp y, xây ngôi mồ cỏ đơn sơ. Trước mộ dựng tấm bia ghi câu lưu niệm:

“Bất huệ nạp tăng, Thích Thiền Tâm hiệu Vô Nhất mai cốt xứ”.

Lời di chúc này phó cho trưởng tử Thanh Nguyệt

Ngày 12-10-1992

Người di chúc Thích Thiền Tâm

(Dưới đây là nguyên văn bản “Di chúc tạm” (chúc thư) của cố Hòa thượng. Bảo Đăng tôi xin in luôn vào để cho quý đọc giả và các môn đồ pháp quyến thân tín của ngài (đặc biệt là chúng thuộc Phương Liên tịnh xứ) gần cũng như xa, trong cũng như ngoài nước, có dịp nhìn lại được nét chữ của tôn sư để so sánh và kiểm chứng, cũng như để tăng thêm hơn nữa phần thương nhớ ngài qua nét bút, văn từ cùng các ý muốn đơn sơ nhưng cao siêu, thoát tục của người, mà trên đời này ít có ai theo kịp.

Thủ bút và lời văn dưới đây đã được Đại đức bổn sư Thích Hải Quang xác nhận chính thật là của chú ruột thầy – cố Đại Ninh tôn sư Thích Thiền Tâm Hòa thượng – Đã di hậu lại cho đại chúng Phương Liên cùng ni sư trưởng tử Thích nữ Thanh Nguyệt mấy tháng trước khi ngài viên tịch – để theo đó mà lo phần hậu sự cho ngài sau khi ngài giã từ cuộc thế).

Người di chúc

Trưởng Giáo kiêm Giám Đốc Phật học viện Huệ Nghiêm (Trước và sau trong thời gian làm việc), Giảng sư Phật học Ni trưởng Dược sư.

Giáo sư về Duy thức học trong đại học Vạn Hạnh.

Phiên dịch viên trong ban Phiên dịch Tam tạng Kinh điển. Viện chủ Hương Nghiêm tu viện.

Thích Thiền Tâm hiệu Vô nhất

Thế danh Nguyễn Nhựt Thăng

Thích nữ Thanh Nguyệt hiệu Phương Liên là đệ tử trưởng do tôi làm lễ xuất gia và thế độ.

Tôi cho y chí với ba vị Ni Trưởng:

Ni trưởng Diệu Ngộ chùa Phổ Đức.

Ni trưởng Đạt Đạo chùa Pháp Quang.

Ni trưởng Huyền Học. Tổng vụ Ni bộ Bắc tông.

Người LÃNH NHẬN LỜI PHÚ chúc

Thích nữ Thanh Nguyệt hiệu Phương Liên (Theo tên Giáo hội Ni bộ, gọi là Tâm Nguyệt, theo thứ tự sau khi thọ đại giới, lại gọi là Như Nguyệt chữ Tâm là lấy tên sau của thầy thế độ chữ Như là thứ tự chung của người sau khi thọ Tỳ kheo ni Bồ tát giới).

Trưởng tử Thích nữ Thanh Nguyệt được toàn quyền quyết định về Am tự, Pháp bảo, đất đai và mọi tài bảo pháp khí của tu viện.

Người lãnh nhận di chúc.

Xin nguyện chấp hành trước Tam Bảo

Thích nữ Thanh Nguyệt

Ký tên

Lược dịch chức vụ của đương sự trong Ni bộ.

1. Hiệu trưởng trường Bồ đề Văn Lang.

2. Tổng thơ ký Tổng vụ Ni bộ Bắc tông. Giáo sư về thế pháp hai trường Ni bộ Từ Nghiêm và Dược sư.

3. Y tá trưởng chùa Ni bộ Từ Nghiêm.

Qua bản “Di chúc tạm” tối hậu này của cố Hòa thượng, tất cả chúng ta sau khi đọc xong, ai mà chẳng cảm thấy lòng mình vừa dâng lên một niềm kính phục và cũng vừa dâng lên một nỗi đau xót, ngậm ngùi. Bởi không như ai khác, ngài không hề có chút lòng tham nào nơi trường thế tục lợi danh, ngay chí đến cả việc hậu sự của ngài mà ngài cũng phó chúc cho chôn cất đơn sơ trong ba điều trối trăn sau chót.

Ai ham cao sang, quyền quý, chùa lớn, đền to, nhà cao, cửa rộng… Vô Nhất đại sư Thích Thiền Tâm Hòa thượng khi còn sanh tiền, trọn kiếp chỉ ưa an vui trong cảnh đạm bạc tu hành, vách đất, lều tranh, như lời kệ của Ngài Ấn Quang đại sư đã dạy:

Cơm rau đỡ dạ đói,

Lều cỏ che gió sương.

Người đời ai biết được,

Phiền não chẳng còn vương.

và khi qua đời rồi, ngài cũng chẳng muốn mồ cao, mả đẹp như người thế tình vẫn thường ưa nói rằng: Sống có cái nhà (đẹp), chết có cái mồ (to). Qua phần di chúc dạy lại về các việc hậu sự sau khi mình chết đi ngài không mong gì hơn là đem xác thân ra bố thí cho cá, rùa, chim, thú hoặc là khỏa bằng nấm mồ rồi trồng lên thơm, chuối để lợi lộc lại cho những lớp người sau. Ôi! những lời dạy đấy nếu chẳng phải là lời dạy của một bậc nhục thân Bồ Tát thì gọi là gì?

Nam mô A DI ĐÀ PHẬT,

Lành vậy thay, lành vậy thay.

Kính bạch cố Hòa thượng tôn sư,

Đệ tử chúng con xin cúi đầu khấu bái và hết lòng tâm phục.

GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG …
BÁO TẬN, HƯỜN NGUYÊN

Như trước đã lượt qua, trong suốt 24 năm ẩn tu của ngài, nhờ vào tâm thanh tịnh và một lòng chí cốt chuyên tu thêm vào đó là vì có lời tiên tri của mình nên cố Hòa thượng, hơn bao giờ hết ngài rất tường tận về thời khắc vãng sanh của mình.

Sau ngày cho công bố bức thư cuối cùng gởi đến các hàng tử chúng và kế đó là phổ biến bản chúc thư tối hậu xong, ngài chuyên tâm nhứt niệm, một lòng quán tưởng để chờ: “TIN TỨC TÂY PHƯƠNG” mà suốt cả một đời tu, ngài hằng luôn tha thiết mong đợi.

Không giống như mọi người khác (đời cũng như đạo) là “Úy (Húy) tử, tham sanh” (ham sống sợ chết), trái lại ngài còn mong sao cho NÓ chóng đến từng ngày – không phải chỉ mới có gần đây thôi đâu – mà ngay từ khi ngài vừa bắt đầu đáo vào năm tuổi hạn (đầu năm Nhâm Thân, 68 tuổi). Trong di cảo của ngài để lại mà Đại đức Bổn sư Thích Hải Quang mới nhận được sau này (gần 4 tháng sau ngày cố Hòa thượng viên tịch) có ghi một đoạn thơ sau đây:

Sáu tám năm qua, sắp đến ngày,

Trời Tây con trẻ mộng hồn bay.

Trong mơ kính lễ cha già hỏi: (1)

Tin tức chừng nao mới đáo lai?

Vô nhất Tăng
(Chờ đợi tin về)
(Nhâm Thân ngày đầu năm)

Ghi chú:

(1) Cha già đây là Đức A Di Đà Phật, con trẻ là cố Hòa thượng.

Và rồi kịp đến ngày Khánh Đản của Đức Bổn Sư (ngày Phật Đản sanh, rằm tháng tư năm Nhâm Thân, phật lịch 2536), chắc có lẽ là cố Hòa thượng đã nhận được đích xác cái “Tin tức” ấy rồi, (tức là ngài đã dự biết trước được ngày giờ vãng sanh của mình) nhưng theo thông lệ của chư Tổ sư từ xưa là không bao giờ “rêu rao, khoe trước” chi cả, mà chỉ thầm lặng ghi vào trong di cảo để lưu hậu mà thôi.

Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy:

– “Không khi nào tự xưng ta thiệt là Bồ tát, thiệt là A La Hán, khinh thị lời nói với kẻ vị học mà làm tiết lộ cơ bí mật của Phật, chỉ trừ lúc mạng chung có di chúc thầm cho biết mà thôi.

(… Chung bất tự ngôn, ngã chơn Bồ tát, chơn A La Hán, tiết Phật mật nhơn, khinh ngôn vi học, duy trù mạng chung ấm hữu di phủ).

Vì đã biết được như vậy, nên cố Hòa thượng không hề hé môi tiết lộ chi hết về ngày quy tịch của mình, ngay chính cả ni sư trưởng tử là người thân cận nhất mà cũng không sao biết được nữa. Ngài chỉ âm thầm ghi vào trong “nhật ký” ngày giờ quy Tây của mình mà sau này khi ngài viên tịch đi rồi, mấy tháng sau mới tìm thấy được (nhơn đọc lại quyển nhật ký của cố Hòa thượng) bấy giờ mới khám phá ra bài kệ: “Quy kỳ vịnh” của ngài như sau:

QUY KỲ VỊNH (1)

Tam thử, Mão thời quy,

Lai, khứ thiểu nhơn tri.

Lục bát trần duyên mãn,

Thân xuất đáo Tây kỳ.

(Khánh đản 2536, 15-4 Âl – Nhâm Thân)
Vô Nhất Tăng Thích Thiền Tâm
(Di hậu)

Ghi chú:

(1) Quy kỳ vịnh là bài thơ ngắn nói về việc vãng sanh của mình.

Bài vịnh “quy kỳ” bí ẩn này, ý nghĩa của nó lạ lùng và khó hiểu, đọc hoài mà vẫn không biết là ngài “di hậu” lại việc gì. Chỉ biết khái quát là nói về việc viên tịch của ngài mà thôi.

Câu đầu:

Tam thử, Mão thời quy,

Tức là:

Ba chuột, giờ Mẹo về,

Thì không biết nghĩa là gì? Mãi cho đến sau này mới khám phá ra ý nghĩa của chữ “Ba con chuột, và một con mèo” là:

Tam thử: 3 con chuột – là chỉ vào đúng ngày viên tịch của cố Hòa thượng – Ngài viên tịch ngày 21 tháng 11 Âl, nhằm vào ngày Giáp TÝ + tháng TÝ (tháng 11) + kiến Nhâm TÝ = 3 con chuột, lúc 6 giờ 15 phút sáng là giờ MẸO (mão thời) – còn chữ Quy kỳ đây là thời kỳ quy tận, quy tịch.

Câu thứ hai:

Lai, khứ thiểu nhơn tri.

Tức là nói về cái việc ĐẾN (nơi cõi đời này) và ĐI (khỏi cõi đời này) của ngài, người thường ít ai hay biết được. Như vậy thì ngài là ai đây? là Bồ tát, A La Hán hay là Tổ sư ứng thế? mang thân phàm này để tu hành, làm gương mô phạm cho hàng tứ chúng và chấn chỉnh cùng hoằng dương về Tịnh Độ tông (nghĩ có lẽ ngài là ứng thân của Ấn Quang Tổ sư – là vị tổ thứ 13, cuối cùng của tông môn Tịnh độ bên Trung Hoa) vì bình sanh ngài rất mến mộ Ấn Quang Đại sư, vả lại việc hóa đạo của ngài cũng lại rất giồng với vị tổ sư này.

Câu thứ ba:

Lục bát trần duyên mãn,

(Sáu tám duyên đời hết)

Cầu này ý nghĩa tương đối rõ ràng hơn là ngài ám chỉ đến năm sáu tám (tức là năm sáu mươi tám tuổi) thì duyên trần của ngài đã mãn, và ngài sẽ ra đi (ứng thân di tận).

Câu thứ tư:

Thân xuất đáo Tây kỳ.

(Bỏ thân trở về Tây)

Chữ Thân xuất đây cũng có nghĩa là năm (Nhâm) THÂN (1992) nữa.

Như vậy thì ngài đã biết được “QUY KỲ” của mình rồi (chữ cuối nơi câu đầu trong bài vịnh và chữ cuối của câu chót hợp lại thành ra hai chữ “QUY KỲ” (tức là thời kỳ quy tịch). Ngày giờ đó chính là ngày, giờ và tháng, năm mà ngài sẽ thị tịch vãng sanh.

Ấy là:

Giờ Mẹo (6g 15 phút sáng) ngày Giáp Tý (21), tháng Tý (tháng 11 Âl)Kiến Nhâm Tý, năm (Nhâm) THÂN (1992 dl).

(Tịch ngày 21 tháng 11 Âl năm Nhâm Thân, lúc 6 giờ 15 phút hưởng thọ 68 tuổi đời, 48 tuổi đạo).

Mặc dầu đã biết rõ như vậy nhưng ngài vẫn trầm hậu không nói ra lời hay bày tỏ cử chỉ chi khác lạ, trái lại ngài vẫn sống an điềm như những bình nhật đã qua, ăn uống đạm bạc, tu hành tinh tấn, và nay đau, mai yếu rề rề … Thiệt là con đường đi của một bậc cao tăng, người đời ít ai hay biết được!

Đến ngày 20 tháng 10 Âl (tức ngày 14/11/dl 1992) – một tháng trước khi viên tịch – ngài có lưu lại một bài thơ (áp út) sau đây trong di cảo:

TỰ CẢM

Sáu tám nhọc nhằn kể xiết chi,

Thăng trầm nhiều nổi chi không đi.

Mài giũa cho thành ra ngọc quý,

Mới hay châu nọ thiệt “Ma ni”.

Một niệm công thuần hai bốn chẵn,

Cõi tạm khứ hồi mấy kẻ tri!

Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,

Trần duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.

Vô Nhất Tăng Thích Thiền Tâm
(Tự cảm – 21-10 Âl – Nhâm Thân)

Bảo Đăng xin sơ lược ý của bài thơ này như sau

Câu 1:

Sáu tám nhọc nhằn kể xiết chi,

Là ý ngài nói 68 năm sống ở trên cõi đời này ngài đã chịu nhiều nỗi nhọc nhằn (phiền não) khó mà kể cho xiết (hết) được.

Câu 2:

Thăng trầm nhiều nỗi chi không đi.

Là ý ngài nói mặc dù đã chịu không biết ba nhiêu thăng trầm, vinh nhục rồi nhưng chí nguyện quyết tâm tu hành, cầu giải thoát của ngài vẫn không vì đó mà thay đổi.

Câu 3:

Mài giũa cho thành ra ngọc quý,

Đây là ngài nương theo ý của câu: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhơn bất học bất tri lý”, tức là: Ngọc mà không giũa mài thì không thành ra ngọc quý, người mà không học (đạo) thì không thông lý (đạo), còn cuộc đời của mình cũng thế, nếu như không bị mài giũa, thăng trầm ắt sẽ không thể nào tâm cuơng quyết được.

Sách có câu:

Vô nhơn kiến xúc, đạo quả nan thành.

(Không người xúc não, khó thành đạo quả)

Hoặc là:

Ma vô khảo bất thành đại đạo.

(Không bị ma khảo thì không thành Phật được)

Và lại trong bộ luận “Bảo Vương Tam muội” cũng có dạy rằng:

1. Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không tật bệnh, vì không tật bệnh thì tham dục dễ sanh.

2. Ở đời đừng cầu không bị khó khăn vì không bị khó khăn thì kiêu sa nổi dậy.

3. Cứu xét tâm tánh đừng cầu không khúc mắc vì không bị khúc mắc thì sở học không vượt bực.

4. Sự nghiệp đừng mong không bị chông gai vì không chông gai thì chí nguyện không kiên cường.

5. Làm việc đừng mong dễ thành vì quá dễ thành thì thường sanh kiêu ngạo.

6. Giao tiếp đừng mong lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.

7. Với người thì đừng mong thuận chiều ý mình vì được thuận chiều ý mình thì sanh tự kiêu.

8. Thi ân đừng cầu đáp trả vì cầu đáp trả là thi ân có mưu tính.

9. Thấy lợi đừng nhúng tay vào vì nhúng tay vào thì hắc ám tâm trí.

10. Oan ức không cầu biện bạch, vì biện bạch thì hèn nhát mà trả thù thì oán đối kéo dài…

Chính vì nhờ có các sự MÀI, GIŨA nên ngọc kia mới thành ra quý ngọc được (như viên ngọc bích của họ HÒA trong thời (Đông Châu liệt quốc) vậy. Trường hợp của cố Hòa thượng đây cũng giống y như thế.

Câu 4:

Mới hay châu nọ thiệt “Ma ni”.

Là ý ngài nói nhờ mài, giũa như vậy nên chẳng những nở thành ra ngọc quý mà thôi, mà đó lại chính là ngọc: “Ma ni như ý thần châu” nữa (tức là đạt được đạo mầu giải thoát).

Câu 5:

Một niệm công thuần hai bốn chẵn,

Một niệm đây là nhứt niệm, tức là một câu niệm: A Di Đà Phật – mà ngài đã cố công rèn luyện trong suốt 24 năm trời như vậy, nay công ấy đã thuần rồi, chỉ còn nhờ ngày chuyển thành ra diệu dụng (vãng sanh) mà thôi.

Câu 6:

Cõi tạm khứ hồi mấy kẻ tri!

Là ý ngài nói mình đến ở nơi cõi tạm này và rời khỏi nó để ra đi, người thế gian ít ai biết được (tông tích) cả (Phi tích cao tăng).

Câu 7 và 8:

Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,

Trần duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.

Là ý ngài nói vào năm Nhâm Thân (năm nay 1992), nội trong ngày Tý, tháng Tý, kiến (nhâm) Tý, lúc giờ Mẹo là ngài vĩnh viễn dứt tuyệt duyên trần, không bao giờ còn bị sầu khổ, bi ai nữa.

Lành vậy thay Vô Nhất đại sư.

Thời gian từ đây trở đi (cho đến ngày viên tịch) ngài dặn bảo, giao phó và chúc lụy hết tất cả mọi việc tịnh xứ lại cho ni sư trưởng tử Thích Thanh Nguyệt – chỉ dạy cho người cách thức quản chúng và thay thế mình lãnh đạo sư môn dắt dìu đệ tử cùng với các công việc cần thiết khác.

Đã nhiều lần ni sư cùng các môn đồ dập đầu ai thỉnh (khóc mà thỉnh) xin hòa thượng từ bi nán lại thêm ít lâu nữa bởi vì chúng con còn thơ dại (trong cả hai đường đạo lẫn đường đời) và Phật sự thì còn rất đa đoan, chùa chưa cất, tượng (Tỳ Lô giá na cao 15m) vẫn chưa dựng xong, kinh phiên dịch còn đang bỏ dở v.v… thầy ra đi rồi thì ai sẽ là người thay thế thầy để dạy dỗ, dìu dắt chúng con đi trên con đường đạo đầy dẫy chông gai, hiểm nạn này.

Ngài từ ái bảo:

– Chớ có buồn rầu, pháp của chư Phật là phải như thế. Hữu sanh tất hữu tử – lý đó con đã biết rồi. Hãy cố dằn tâm lại mà lo chơn thật, cố gắng chuyên tu. Ta đi trước rồi, các con lần lượt cũng sẽ đi sau. Đó là định luật vô thường, xưa nay vẫn vậy.

Bảy ngày trước khi viên tịch, cố Hòa thượng có dặn ni sư một điều rất quan trọng là:

– Sau khi thầy viên tịch rồi, ngày khai mộ (mở cửa mã) của thầy sẽ có hai vị Kim xà vương đệ tử đến thọ tang, hai vị này sẽ biến hình ra thành hai con “Kim Xà” (rắn vàng) bò đến trước đầu mộ. Con nhớ trông chừng và bảo vệ cho hai vị ấy yên lành trong thời gian họ thọ tang, đừng để cho ai đụng chạm đến nơi thân mình của họ. Phải nhớ đừng quên.

Còn về việc chùa và tượng Tỳ Lô Giá Na thì sau này sẽ có người từ ngoại quốc về giúp con xây dựng, mọi việc rồi cũng sẽ viên thành trong thời gian chừng hai năm trở lại mà thôi.

Ngày 20 tháng 11 Âl năm Nhâm Thân, ngài gọi ni sư trưởng tử vào và dặn bảo thêm các lời di chúc tối hậu. Trong di cảo của ngài để lại, nơi trang chót còn có ghi một bài thơ cuối cùng như sau:

BÀI TỰ CẢM CUỐI CÙNG

Sáu tám năm qua việc đáng kinh,

Thăng trầm vùi dập, lắm tai tinh.

Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,

Mà kiếp phù sinh tạm múa hình.

Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT NIỆM,

DI ĐÀ sáu chữ phóng quang minh.

Hôm qua tin tức trời TÂY báo,

GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.

Vô Nhất Tăng.
Liên Du – Thích Thiền Tâm
(Bài lưu hậu cuối cùng – Năm Nhâm Thân
ngày Quý Hợi 20-11 Âl – (13-12 Dl-1992))

Bảo Đăng xin lược khái quát ý nghĩa của bài thơ này như sau:

Đại ý ngài nói:

– Sáu mươi tám năm qua sống trên cõi thế này, đời ngài đã lãnh chịu không biết bao nhiêu nạn tai và thăng trầm vùi dập… cả một kiếp đời trôi qua như thế, nghĩ lại cũng giống như là một giấc mơ dài (ác mộng) mà thôi. Cái kiếp phù sinh như bào, như ảnh cùng với xác thân tứ đại này đây, chẳng qua cũng giống như một cái hình nộm múa máy tay, chân, … đứt hết giây rồi, té nhào xuống thì thành ra một đống vô dụng (chết).

– 24 năm về ẩn tu tại đây, ngài chỉ ròng rặc chuyên trì nhứt niệm A DI ĐÀ PHẬT, nay công đã thành, quả đã mãn. Hôm qua (19-11 Âl Nhâm Thân), Đức A DI ĐÀ Thế tôn đã có đến báo tin rằng:

– Giờ Mẹo ngày mốt (6 giờ 15 phút sáng ngày 21/11 Âl năm Thâm Thân) là ngài sẽ vĩnh biệt cõi Ta bà này và trực chỉ thẳng về nơi An dưỡng.

Suốt hai hôm sau cùng của Tôn sư trên cõi thế, tất cả đại chúng nơi Phương Liên Tịnh xứ vi thảy đều đau buồn trong cảnh con sắp mất cha nên không một ai chợp mắt được cả. Riêng phần vị sư trưởng tử thì lòng nóng như lửa đốt, tâm trí rất mực bi ai, giả sử như lúc đó nếu có người nào bảo rằng hãy lấy thân mạng của nhà ngươi để chuộc lại sự sống còn cho Hòa thượng, thì chắc chắn là ni sư cũng sẽ chịu liền!

Đêm đó (20 rạng 21) Hòa thượng ngồi trước bàn Phật (ở trên lầu) trì niệm suốt buổi. Đến 3 giờ sáng, ngài biết thời khắc vãng sanh sắp đến nên mở mắt ra, truyền lịnh cho ni sư trưởng tử triệu chúng vào trong tịnh thất hộ niệm. Kế đó Hòa thượng bước xuống lầu rửa mặt, nghiêm chỉnh y hậu xong ngài an tọa vào trên chiếc ghế nơi mà ngài vẫn thường ngồi để tịnh niệm thường nhật, tay trái kết ấn “Di Đà định”, tay mặt lần chuỗi niệm Phật.

Trước mặt Đại sư là ni sư trưởng từ và các đồ chúng nơi Phương Liên tịnh xứ vân tập đầy đủ. Đồ tôn là tỳ kheo Thích nữ Bảo Đàn thỉnh bức tượng tranh của đức A DI ĐÀ Thế tôn đứng trong vị thế tiếp dẫn đặt nơi trước mặt ngài. Các môn đồ, pháp quyến vừa rơi lệ khóc thầm, vừa cất cao tiếng hộ niệm …

Đại sư mỉm cười thốt lời an ủi rằng:

– Hãy bình tâm lại, đừng có khóc nữa. Ta được về Tây là điều hân hạnh, các con hãy theo đó mà cố gắng niệm Phật chuyên cần. Nếu được như vậy, ắt một ngày kia sẽ cùng hội ngộ nhau nơi miền An dưỡng.

Còn các việc thành, bại, vinh hư trên cõi đời này, chẳng phải là chỗ quan tâm đến của ta.

Đoạn ngài đọc bài kệ rằng:

Đời ta chỉ gởi chốn Liên trì,

Trần thế vinh hư sá kể gì.

Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,

Mừng nay được thấy đức A DI.

Tuyên xong lời kệ sau cùng này, ngài ngồi yên trên ghế, nhắm mắt như vào trong định. Đại chúng biết chắc. Đại sư sắp sửa quy Tây, nên đồng cất cao tiếng hộ niệm, mỗi lúc càng thêm khẩn thiết.

Đến 6 giờ 15 phút (giờ Mẹo) Đại sư bỗng mắt ra, chấp tay nói:

TA ĐI ĐÂY – ĐẠI CHÚNG NÊN BẢO TRỌNG

Đoạn nhắm mắt lại, tay trái ngài vẫn kết ấn DI ĐÀ Định, tay mặt buông xuôi xuống, xâu chuỗi từ trên tay ngài rơi xuống chiếu và ngài lặng im, an nhiên thoát hóa ngay trên bản tọa.

Ni sư trưởng tử và các môn đồ pháp quyến cố gắng dằn lòng xúc động, nén nổi bi thương, vẫn để yên di thể ngài ngồi trên bản tọa như vậy và tiếp tục hộ niệm thêm hơn hai giờ đồng hồ nữa. Đến 9 giờ sáng mới cùng nhau nhẹ đỡ pháp thể ngài lên, đặt nằm ngay ngắn trên đơn (của ngài), đắp mền lại kỹ lưỡng trông y như ngài vẫn còn đang ngủ vậy.

Toàn thân của Đại sư vẫn mềm, ấm, dịu dàng và dung sắc vẫn còn hồng hào, tươi nhuận y như còn sống. Đỉnh đầu ngài nóng hực như tưới nước sôi.

Sách có câu:

Đảnh thánh, mắt sanh trời

Bụng nóng ngạ quỷ, tim nóng người.

Bằng sanh thần thức ra đầu gối,

Nóng ở bàn chân, địa ngục thôi.

Chiếu theo các hiện tượng trước và sau khi viên tịch cùng với ý câu đầu của:“Đảnh thánh, mắt sanh trời” trong bài kệ này thì biết chắc rằng:

ĐẠI SƯ ĐÃ ĐẠT XONG NGUYỆN VỌNG CỦA MÌNH VÀ ĐƯỢC VÃNG SANH VỀ NƠI CỰC LẠC.

Đại sư hưởng thọ tuổi đời được 68,tuổi đạo 48 (Tăng lạp 42).

Về phần của các chúng nơi Phương Liên tịnh xứ thì sau khi an pháp thể của Đại sư ở trên đơn xong rồi, đồng nhau khấn đầu lễ tứ bái vĩnh biệt, kế đó đóng cửa thất của ngài lại, cùng bước ra ngoài để chuẩn bị lo tiếp các phần hậu sự.

Đến 9 giờ 30 phút, đại chúng ở ngoài Hương Nghiêm Tịnh viện hay tin, đồng nhau kéo vào, dùng đa số và cường lực phá cửa thất ra “thỉnh ngang” di thể của ngài đưa thằng về chùa.

Lễ di quan, nhập thất hoàn tất vào khoảng 8 giờ sáng ngày 25-11 Âl năm Nhâm Thân (18-12-1992 dl) tại Hương Nghiêm Tịnh viện.

Đại sư là một cao tăng đắc đạo và được vãng sanh Cực lạc duy nhất trong thời buổi cận đại này, ngài là một bậc thạc sư về Phật học, là một vị đại tăng chói rực phần danh đức trong vòm trời Phật giáo Việt Nam và là một đại tôn sư hoằng dương cả hai pháp môn TỊNH ĐỘ cùng MẬT TÔNG lừng lẫy nhứt của Giáo hội từ trước đến giờ.

Sự hoàn nguyên của ngài là một mất mát cực kỳ lớn lao cho Giáo hội và để lại vô vàn nhớ nhung, thương tiếc cho toàn thể tăng, ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam khắp nơi trên thế giới.

Đại sư có lưu lại một viên NGŨ SẮC KIM CANG NHA XỈ XÁ LỢI (một răng cắm năm màu còn nguyên vẹn) cứng như kim cương, được bảo toàn kỹ lưỡng.

Ba ngày sau (21/12 dl 1992), trong lễ khai mộ của ngài, tất cả mọi người hiện diện đều trông thấy có một đôi kim xà màu vàng rực rỡ dài khoảng hai thước tây bò đến trước đầu mộ của Đại sư, nằm im một chốc, đoạn cất đầu ngó lên ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt, gật đầu ba lượt rồi bò đi vào trong đám cỏ tranh gần đó biến mất. (Các hình ảnh về đôi Kim xà này đều đã được ghi nhận đầy đủ bằng hình chụp và video).

Khắp nơi trong quốc nội hay được tin Đại sư viên tịch, thảy đều đồng cử phái đoàn về để chịu tang và kính lễ.

Đại lược được ghi nhận như sau (sơ khởi):

– Linh Sơn tự (và phái đoàn tăng ni Phật tử Đà Lạt).

– Đại diện Phật giáo của các tỉnh Đồng Nai, Phan Rang v.v…

– Đơn vị Phật giáo của tất cả các tỉnh miền Trung và miền Nam.

– Viện Nghiên cứu Phật học.

– Các tự viện khắp nơi trong toàn quốc.

– Vĩnh Tràng tự (Mỹ Tho) – Sắc tứ tự (và phái đoàn chùa tổ).

– Các ban giám hiệu, ban giảng huấn của các viện Trung và Cao đẳng Phật học Phan Thiết, Phan Rang, Đồng Nai, Huệ Nghiêm, Thủ Đức, Long An và các trường Phật học khác trong toàn quốc.

– Các Tăng ni sinh đệ tử thuộc các trường Phật học Huệ Nghiêm, Dược sư, Từ Nghiêm v.v…

– Tất cả các môn đồ, pháp quyến khắp nơi trên toàn quốc.

– Phật tử tỉnh Tuyên Đức và các Niệm Phật đường tại Phú An, Đại Ninh, Thiện chí (do ngài sáng lập) v.v…

Ngoài quốc ngoại, các tự viện Việt Nam khắp nơi trên năm châu hay tin cũng đều thành kính cử hành các đại lễ cầu siêu, tưởng niệm … Riêng tại thành phố Tucson, Arizona, Đại Đức Viện chủ kiêm trụ trì PHÁP HÒA tự THÍCH HẢI QUANG là cháu ruột của Đại sư (đã bế quan tịnh tu vô thời hạn hơn ba năm qua tại miền Trung Mỹ) nhận được tin buồn cấp báo cũng liền ra thất và tức tốc trở về chùa để cùng với các môn đồ pháp quyến cùng chư Phật tử tại địa phương cử hành đại lễ chịu tang và truy tiến giác linh cố Đại sư.

Trước tin tức đau buồn này, tất cả các môn đồ, pháp quyến thống thuộc Pháp duệ (dòng pháp) của Đại sư tại PHÁP HOA tự Tucson, Arizona đã cho phổ biến một bản “Ai tín văn” đến các bổn đạo, Phật tử của ngài hiện diện khắp nơi trên toàn quốc để thông báo sau

AI TÍN

Toàn thể Phật giáo đồ tiểu bang Arizona và riêng các môn đệ tại thành phố Tucson vô cùng đau đớn báo tin:

Sư tổ: VÔ NHẤT ĐẠI SƯ

Hòa thượng THÍCH THIỀN TÂM

Viện chủ Hương Nghiêm Tịnh viện, Pháp chủ Phương Liên Tịnh xứ Mật Tịnh đạo tràng, tại Đại Ninh, ấp Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng VN.

Đã an lành thị tịch vãng sanh vào lúc 6g15 sáng ngày 21-11 Âl năm Nhâm Thân. (Nhằm ngày thứ hai 14-12 dl năm 1992) Hưởng thọ: 68 tuổi.

Ngài là một vị Đại tăng chói rực phần danh đức, được xem như là một thánh tăng đương kim và là con mắt của Phật giáo Việt Nam trong hiện tại.

Sự “Hoàn nguyên” của ngài là một mất mát vô cùng to lớn cho toàn thể Phật giáo đồ và Phật giáo Việt Nam trong quốc nội cũng như quốc ngoại.

Chúng con xin thành kính cúi lạy trước kim quan và nguyện Giác linh ngài được vãng sanh về ngôi kim đài thượng phẩm nơi miền Tây Phương An Lạc quốc.

Ưu bà di BẢO ĐĂNG
Hội trưởng, trưởng ban hoằng pháp, nghi lễ.
Pháp Hoa Tự – Tucson, Arizona. Đồ tôn Pháp duệ. Cùng tất cả đồ tôn thuộc các dòng pháp: HIỀN, TÂM, MINH, CHƠN, TỊNH, BẢO, HẠNH, VIÊN.

Đồng khóc báo.

Song song với bản “Ai Tín văn” này, chùa Pháp Hoa Tucson, Arizona đồng thời cũng đã cho phổ biến một bản “CẢM TẠ văn” của Ni sư trưởng tử Thích nữ THANH NGUYỆT và cháu ruột kiêm đệ tử của cố Đại sư là Đại Đức Viện chủ kiêm trụ trì PHÁP HOA tự THÍCH HẢI QUANG để bày tỏ lòng tri ân đến chư Hòa thượng, thượng tọa, Đại đức Tăng ni v.v… khắp nơi (quốc nội và quốc ngoại) đã có lòng tưởng nghĩ đến cố Hòa thượng qua các đại lễ tưởng niệm được cử hành, như sau:

CẢM TẠ

Chúng con xin thành tâm đê đầu đảnh lễ, ngưỡng tạ công đức của quý chư Tôn:

Hòa thượng Thượng tọa Đại Đức Tăng Ni.

Viện chủ Pháp chủ, thống lãnh các Phật tự, Tịnh xá, trung tâm cùng các khuôn hội Phật giáo trong cũng như ngoài nước, đã cử hành các đại lễ cầu siêu, truy tiến, tưởng niệm và đưa tiễn đến nơi an nghỉ cuối cùng cho thầy bổn sư, thế độ của chúng con là:

Hòa thượng THÍCH THIỀN TÂM
Viện chủ Hương Nghiêm Tịnh viện,
Pháp chủ Phương Liên Tịnh xứ Mật Tịnh đạo tràng

Viên tịch vào lúc 6g15 sáng ngày thứ hai 14-12 dl năm 1992, tức ngày 21-11 Âl năm Nhâm Thân, tại Phương Liên Tịnh xứ, Đại Ninh, ấp Phú An, xã Phú Hội, quận Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng Việt Nam.

Hưởng thọ 68 tuổi đời 48 tuổi đạo.

Trong pháp sự rộn ràng, nếu có sơ sót điều chi, xin chư tôn đức từ bi miễn thứ cho.

VIỆT NAM QUỐC: Ni sư Thích nữ THANH NGUYỆT đệ tử, thị giả, trưởng pháp tử, hậu duệ, pháp duệ, chánh văn phòng tại Phương Liên Tịnh xứ, Đại Ninh – Phú An, Phú Hội, Đức Trọng – Lâm Đồng.

HOA KỲ QUỐC: Đại đức THÍCH HẢI QUANG, Viện chủ trụ trì Pháp Hoa Tự, Tucson, Arizona. Cháu đích tôn, đệ tử, hậu duệ, pháp duệ.

Cùng tất cả các đệ tử xuất gia, tại gia trong quốc nội, ngoài quốc ngoại. Đồng khấu bái.

Kế tiếp đó, cũng cùng một lý do tương tự (như trên), chùa cũng đã cho đăng phổ biến một bản CẢM TẠ khác nữa từ nơi đại gia đình (thế gia) của cố Đại sư – tức là bên Nội của Đại Đức Bổn sư THÍCH HẢI QUANG ở tại xã Bình Xuân, quận Hòa Đông, tỉnh Gò Công như sau:

CẢM TẠ

Chúng tôi, toàn thể đại gia đình họ Nguyễn, Bình Xuân, Gò Công, xin thành kính nghiêng mình cảm tạ quý chư tôn:

Hòa thượng Thượng tọa Đại Đức Tăng Ni, cùng tất cả chư liệt vị Phật tử khắp nơi trong quốc nội và quốc ngoại. Đã cử hành các lễ: Truy tiến, cầu siêu, phân ưu, tưởng niệm và đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng cho Đại sư và cũng là anh em, bác, chú, cậu ruột của chúng tôi là:

Đại sư – Hòa thượng THÍCH THIỀN TÂM

(Húy danh Nguyễn Nhựt Thăng) sanh năm Ất Sửu 1925 tại làng Bình Xuân, quận Hòa Đồng, Gò Công.

Viên tịch vào lúc 6g15 sáng, ngày thứ hai 14-12 dl 1992 (nhằm ngày 21-11 Âl năm Nhâm Thân) tại Phương Liên Tịnh xứ đạo tràng, Đại Ninh, ấp Phú An, xã Phú Hội, quận Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng Việt Nam. Hưởng thọ 68 tuổi.

Vì đường sá xa xôi, tang quyến đạm bạc. Nếu có điều chi sơ sót xin quý vị từ bi miễn thứ cho.

Thay mặt toàn thể đại gia đình,

NGUYỄN VĂN THẮNG Vợ và các con

Bình Xuân – Hòa Đồng – Gò Công VN

Em trai út.

Đồng cúi lạy, và cảm tạ

Những bản văn Ai Tín, Cảm Tạ này đều đã được gởi đăng trên các nhật báo, Tuần báo, Bán nguyệt san, Nguyệt san… phổ thông khắp nơi trên nội địa Hoa Kỳ.

Gần 5 tháng sau, nhân có chút duyên sự về bên quê nhà, người viết – Bảo Đăng tôi – đã dành ra rất nhiều thời giờ và cố công đi sưu tìm các tài liệu có liên quan đến cuộc đời của cố Đại sư để (quyết tâm) biên soạn thành một quyển sách, tựa đề:

VÔ NHẤT ĐẠI SƯ
THÍCH THIỀN TÂM.
MỘT CAO TĂNG CẬN ĐẠI.

tức là quyển sách mà quý đạo hữu đang có ở trên tay đây. Sau gần một năm cặm cụi và đơn thân biên soạn, đánh máy, trang trí, trình bày v.v… xong. Tôi có trình bạch lên Đại Đức Bổn sư THÍCH HẢI QUANG duyệt khán, xin thầy cho phép được in ra để ẤN TỐNG và được Đại Đức chuẩn y bằng một THÔNG BẠCH như sau:

Phật lịch 2537/DL 14/8/1993

THÔNG BẠCH

Trích yếu: Về việc in Ấn tống quyển sách:

“VÔ NHẤT ĐẠI SƯ THÍCH THIỀN TÂM,MỘT CAO TĂNG CẬN ĐẠI”.

Nam mô Bổn sư THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính thưa quý Phật tử.

Như quý Phật tử đã biết, vào ngày 21 tháng 11 Âl năm Nhâm Thân 1992 vừa qua, một vị danh đức Đại Tăng của Phật giáo Việt Nam, Cố Hòa Thượng Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM, Viện chủ Hương Nghiêm (Vĩnh Minh) Tịnh viện, Pháp chủ Phương Liên Tịnh xứ Mật Tịnh Đạo tràng ở Đại Ninh, ấp Phú An, xã Phú Hội, quận Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng (Đà Lạt), đã an nhiên thị tịch ngay trên bản tọa giữa tiếng niệm Phật vang rền của các môn đồ, pháp quyến hộ niệm nơi Phương Liên Tịnh xứ, huởng thọ 68 tuổi đời, 48 tuổi đạo.

Sự viên tịch với đầy đủ thoại tướng vãng sanh của ngài là một chứng tin oai hùng cho pháp môn Tịnh độ mà Cố Hòa Thượng đã khổ công hoằng dương suốt cả một cuộc đời tu tập của mình, làm cho toàn thể Tăng tín đồ Phật giáo Việt Nam khắp nơi đã và đang tu theo Tịnh Độ pháp môn càng tăng thêm lòng tin sâu chắc nơi lời dạy của đức Bổn sư và sự tiếp dẫn vãng sanh của đức A DI ĐÀ Thế tôn về An lạc quốc của riêng pháp môn này.

Để tỏ lòng biết ơn và cũng để muốn hiến dương lên phần nào danh đức của một bậc tôn sư đáng kính, lại thêm vào đó với tư cách của một đồ tôn (đệ tử cháu) đối với sư ông của hệ phái Tịnh Độ Đại Ninh Phương Liên Mật Tịnh Đạo tràng. Đương kim Hội trưởng kiêm trưởng ban Hoằng pháp và Nghi lễ của chùa Pháp Hoa, Tucson Arizona là Ưu bà di BẢO ĐĂNG sau hai lần về Việt Nam thâu nhặt tài liệu để viết thành một quyển sách ghi lại cuộc đời của cố Hòa Thượng tựa đề là:

“VÔ NHẤT ĐẠI SƯ – THÍCH THIỀN TÂM, MỘT CAO TĂNG CẬN ĐẠI”.

để cho các Phật tử trẻ tuổi cùng các người học Phật và tu hành theo phương pháp “Mật Tịnh pháp môn” của hệ phái Tịnh Độ Đại Ninh sau này có nơi y cứ vững chắc mà phát triển lòng tin nơi pháp môn Tịnh Độ, nay đã hoàn tất sau gần một năm dài biên soạn.

Sách dài 500 trang, bài vở được sưu khảo và biên soạn công phu sẽ được in để ẤN TỐNG vào tháng 12 dl 1993 tới đây (có thể sẽ trễ hơn vài tháng sau).

Vì thế nên tôi kính gởi bức Thông bạch này đến quý đạo hữu, Phật tử, nhất là những ai đã từng quen biết, học hỏi, y chỉ, cầu pháp hoặc là các đệ tử, đồ tôn, hoặc là các Phật tử của cố Hòa Thượng Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM lời kêu gọi phát tâm tùy hỷ đa thiểu vào việc ấn tống quyển sách đầu tiên, đặc biệt, duy nhất và cực kỳ giá trị này cho sớm được hoàn tất vào ngày giỗ giáp năm của cố Hòa Thượng sắp tới đây, lấy đó để làm một “Tấm lòng thành” dâng lên cúng dường và báo đền ơn đức hóa độ trước giác linh của Hòa Thượng.

Số lượng sách dự trù in từ 5.000 quyển hay hơn nữa.

Chi phiếu tùy hỷ vào việc pháp sự này xin gởi về

CHÙA PHÁP HOA

PT. BẢO ĐĂNG / Ban ẤN TỐNG Kinh sách

1107 E.32nd St.Tucson – Arizona 85713

Phone: 602-623.8409

Sách này sẽ được “Ấn tống” đến quý đạo hữu ngay sau khi việc ấn loát được hoàn tất.

Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho quý đạo hữu, Phật tử được một may lành, bền lòng Tín, Hạnh, nguyện nơi pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật tu hành trong hiện tại và được sanh về Cực lạc Tịnh độ ở tương lai để khỏi phụ ơn của đức THÍCH TÔN và A DI ĐÀ Như Lai từ phụ cùng sự hoằng dương hóa độ của Hòa Thượng Đại Ninh tôn sư.

Trân trọng.

Phần Chung Kết

Bắt đầu từ nơi phần dẫn nhập của quyển sách này…

Quý đạo hữu, chư độc giả cũng đã xem qua và thấy lại được (ít, nhiều về) cuộc đời của cố Hòa Thượng Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM – một bậc vãng sanh cao tăng hiện đại – từ lúc ngài ứng thế vào năm Ất Sửu 1925 nơi xã Bình Xuân, quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công rồi lớn lên, xuất gia, kế tiếp là trên bước đường tu học cùng hoằng dương đạo pháp, bềnh bồng phiêu dạt trong cõi tạm này, từ nơi nọ đến chỗ kia… Ẩn tu, nhập thất v.v… CHO ĐẾN ĐÂY – nơi phần chung kết này – là những giờ phút cuối cùng của ngài – của một đời người trên cõi thế. Như những dòng thơ lưu hậu sau rốt của ngài còn để lại:

Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,

Mà kiếp phù sinh tạm múa hình.

Trong tất cả chúng ta: những người con Phật với một nguyện tâm chân chính, học đạo, tu hành cầu chơn giải thoát – cũng như cố Đại sư vậy – ai mà chẳng thấy lòng dâng lên một mối cảm khái, u hoài cho thân phận của thế nhân ư!

Kinh dạy:

… “Này A Nan, Phàm có sanh thảy đều có tử chớ chẳng được thường còn. Dầu cho uống thuốc trường sinh kéo dài năm tuổi (thọ) chung quy rồi cũng chẳng thoát khỏi tử thần giết chết đưa qua đất trống.

… Phải biết, sanh sống không đáng vui ưa. Tư lương đời sau phải nên chứa họp, chớ có buông lung, gắng siêng tu phạm hạnh chẳng nên lười nhát. Đối với các công đức lành (1) phải thường tích lập. Hằng luôn quán sát chính ở nơi mình, nơi lòng phải luôn ghi nhớ hai nghiệp THIỆN, ÁC đừng quên, chớ nên để về sau phải nói ăn năn, lúc ấy tất cả những vật sở hữu mến ưa đều rời lìa mà theo nghiệp thiện ác đi vào đời sau.

Ghi chú:

(1) Công đức lành gồm có các hành như sau: Lợi hành (hành động có ích lợi cho việc giải thoát), Pháp hành, công đức hành, thuần thiện hành v.v..

Này Nan Đà! Thọ mạng trăm năm có mười vị (giai đoạn):

– Tối sơ là anh nhi hạnh, vị này còn nằm trong nôi.

– Thứ hai gọi là đồng tử, làm trẻ nít vui đùa.

– Thứ ba gọi là thiếu niên, thọ các thứ dục lạc (vui thích).

– Thứ tư gọi là thiếu tráng dũng kiện ca lực (thiếu niên mạnh khỏe đầy đủ sức lực).

– Thứ năm gọi là thanh niên, có trí đàm luận (chuyện trò, bàn bạc)

– Thứ sáu gọi là thành tựu, hay khéo suy lường, giỏi về mưu kế, sách lược, mọi việc hơn thua.

– Thứ bảy gọi là lần suy (1) giỏi dắn kinh nghiệm, pháp thức.

– Thứ tám gọi là hủ mại, các căn đều suy nhược, yếu già.

– Thứ chín gọi là Cực lão, qua tuổi thọ không còn làm được bất cứ chuyện gì được nữa.

– Thứ mười gọi là trăm tuổi, đúng vào (mùi) vị chết.

Ghi chú:

(1) Lần suy đây có hai nghĩa

1- Lần lần biết suy tính thiệt, hơn v.v… để tranh danh, đoạt lợi.

2- Lần lần suy nhược không còn đẹp đẽ, mạnh khỏe v.v… như xưa.

Này Nan Đà!

Khái quát đời người lược nói có 10 vị như vậy. Nếu cứ tính bốn tháng làm một mùa, một năm có 3 mùa, thì đời người trăm tuổi, sống được 300 mùa – 100 mùa xuân, 100 mùa hạ và 100 mùa đông.

– Một năm có 12 tháng, đời người trăm tuổi sống được 1.200 tháng.

– Lấy mỗi nửa tháng (15 ngày) làm số thì được tất cả 2.400 lần nửa tháng.

– Nếu lấy ngày để tính ra, thì cuộc sống trăm năm có được ba vạn sáu ngàn ngày (36.000 ngày).

– Mỗi ngày ăn (hoặc bú sữa mẹ đều kể luôn cả) hai bữa (cơm) thì được bảy vạn hai ngàn bữa ăn (72.000).

Mạng người sống lâu năm tuổi được bao nhiêu đó, nay đã nói đủ: năm, tháng, ngày đêm và số uống ăn, các ông phải nên sanh tâm nhàm chán.

Này Nan Đà, thân ấy từ khi mới sanh ra cho đến lúc khôn lớn, trưởng thành có nhiều bịnh hoạn, như là các bệnh đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, răng, cổ họng, ngực, bụng, tay, chân, cùi, hủi, điên cuồng, sưng thủng, ho suyển, bịnh phong, hoàng nhiệt, đàm ấm, gân cốt thịt xương đau nhức … Thân người có nhiều bệnh khổ như vậy. Lại còn có thêm 101 thứ bệnh phong, 101 thứ bệnh hoàng nhiệt, 101 thứ bệnh tổng hợp. Cộng lại là 404 thứ bệnh từ trong nội thân phát ra.

Này NAN ĐÀ! Thân thể này như ung nhọt, các bịnh hợp thành, không tạm thời dừng, niệm niệm chẳng ở lại. Thể chất của nó là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã, là pháp bại hoại (hư hỏng) gần nơi chết mất chẳng thể nào cưng yêu hay bảo tồn mãi được.

Này NAN ĐÀ! Các chúng sanh khi sống còn có những sự đau khổ khác nữa như là bị chặt tay, chân, đầu, bị móc mắt, thẻo tai, lắt mũi …ngục tù, gông cùm, nóng, mưa tuyết, muỗi mòng, kiến rận, ác thú, độc trùng, nhiều thứ bức não, khổ sở vô lượng, vô biên khó kể hết được… mà các chúng sanh ở giữa những sự thống khổ như vậy lại đam mê, vui thích.

Bao nhiêu các thứ dục lạc đều lấy KHỔ làm căn bản mà chúng sanh chẳng chịu rời bỏ lại cứ mãi đi tìm cầu, ngày đêm bị nung nấu thân tâm, nhiễu não, nội tâm cháy nóng hừng hực không lúc nào nghỉ.

Các khổ như là sanh khổ, lão khổ, bịnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán thù hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ uẩn thọ khổ, đi, đứng, ngồi, nằm, thảy đều khổ cả, đi lâu, đứng lâu, ngồi lâu, nằm lâu thảy đều phát sanh ra đau khổ, nếu có tạm thời thay đổi oai nghi (như có đứng rồi có ngồi, nằm, đi v.v… thì cho rằng vui sướng chớ kỳ thiệt ra chẳng phải là vui sướng).

Này NAN ĐÀ, chúng sanh ấy đều là bỏ khổ này để đi tìm khổ khác, là pháp biến hoại chẳng bảo tồn được, phải cần biết đủ, phải biết chán lìa, phải siêng cầu giải thoát.

Lại này nữa Nan Đà!

– Không có một sắc pháp nào là đáng được mến ưa và không bị biến hoại, không có một sắc pháp nào mà chẳng phát sanh ra sầu, não, ai bi.

– Này Nan Đà!

Sắc ấy là thường hay là vô thường?

– Bạch Thế tôn, sắc ấy là vô thường.

– Này Nan Đà! đã là vô thường thì nó có khổ chăng?

– Bạch Thế tôn, thiệt là rất khổ.

– Này Nan Đà! đã là vô thường, là khổ, là biến hoại, như vậy thì các đệ tử đa văn (có học hiểu giáo lý) của Phật có cho rằng sắc là Ngã chăng, sắc là ngã sở chăng?

– Bạch Thế tôn, không. Trong sắc không có ngã cũng không có ngã sở. (1)

Ghi chú:

(1) Ngã sở: Là những vật của ta, chúng sanh cứ tưởng rằng thân này là của ta, của cải này là của ta, cho nên cứ nắm giữ, mê chấp nó hoài, không chịu buông bỏ để cầu giải thoát.

– Này Nan Đà! Sắc đã là vô thường, vậy Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?

– Bạch Thế tôn, bốn ấm ấy cũng đều vô thường, đều là khổ não.

Phật dạy:

Ai là người có trí mà lại mến thích sanh tử như vậy (Đại Bảo Tích kinh nhập thai tạng phẩm).

Trên đây Bảo Đăng tôi đã vì quý bổn đạo và chư Phật tử mà lược thuật lại lời kinh của Phật dạy để làm duyên cho hết thảy mọi người thấy rõ rằng đời là khổ, thân ngũ ấm, lục nhập này là nguồn gốc của tất cả khổ v.v… mà phát tâm chán bỏ, nhàm lìa, lập nguyện chí thiết, chân thật tu hành, niệm Phật cho thuần, không phải chỉ niệm được trong một vài ngày, một đôi tháng, một đôi năm hay năm, mười năm mà cho là đủ.

Phải niệm cho lâu bền, chuyên nhất cũng như cố Hòa Thượng tôn sư THÍCH THIỀN TÂM đây vậy.

Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm, (1)

Mừng nay được thấy đức A DI.

Ghi chú:

(1) Đức A Di Đà Thế tôn có 48 lời đại nguyện; Vô Nhất đại sư THÍCH THIỀN TÂM tu suốt 48 năm dài và được vãng sanh về Cực lạc.

Một câu niệm Nam mô A DI ĐÀ Phật ấy, một đức Phật DI ĐÀ ấy mà ngài đã chuyên tâm lễ niệm suốt bốn mươi tám năm dài mới được vãng sanh.

Còn chúng ta thì niệm như thế nào đây?

Hỏi tức là đã trả lời rồi vậy.

Đến đây, trước khi kết thúc quyển sách này, BẢO ĐĂNG tôi một lần nữa xin cúi đầu thành kính dâng lên lời khấn nguyện rằng:

– Nguyện cho các đồng nhơn tu học, từ đây về sau và mãi mãi nên phát tâm cần cầu giải thoát bằng cách nương vào nơi pháp môn Tịnh độ và 48 nguyện lực của đức A DI Đà Thế tôn rồi chuyên tâm trì niệm sáu chữ hồng danh: Nam mô A DI ĐÀ PHẬT cho cực tinh thuần như Sư Tổ VÔ NHẤT Đại sư ta, để được hiện đời đới nghiệp vãng sanh về nơi Cực lạc, được bất thối chuyển cho đến ngày thành Phật.

Như vậy há chẳng là quý hơn sao?

Kính bạch Sư Tổ, BẢO ĐĂNG con và tất cả các môn đồ, pháp quyến của ngài ở khắp cả các nơi, nhất tâm đảnh lễ, dâng lên ngài lời chúc tụng thù ân sau đây:

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:

Nam mô Hoằng dương môn Tịnh độ, Đại Ninh Hương Nghiêm cập Phương Liên đạo tràng – VÔ NHẤT Đại sư, THÍCH THIỀN TÂM Hòa Thượng.

Tác đại chứng minh (Tam xưng, tam bái).

LỜI TRẦN BẠCH,

Nam mô A DI ĐÀ PHẬT.

Kính bạch,

Hòa thượng giác linh Tôn sư:

Quyển sách này đã gói trọn tất cả tấm lòng thành kính và những sự quý mến sâu xa nhất của con kính dâng lên cúng dường ngài. Tuy rằng chưa được duyên may gặp gỡ, diện kiến và trực tiếp thọ pháp nơi ngài lần nào, nhưng qua Đại Đức Bổn sư Thích Hải Quang là cháu ruột của ngài, con cũng tự xem như mình đã được gián tiếp theo học từ nơi ngài vậy.

Việc biên soạn nên quyển sách này, qua lời dạy của ĐĐ. Bổn sư, con cũng biết có thể là một việc làm trái với tâm nguyện của Ngài, vì đã từ lâu ngài không có ý định muốn cho ai biết rõ về cuộc đời của mình cả.

Nhưng vì để lưu hậu, vì để nêu gương sáng cho các hàng hậu học sau này nên dù biết là như vậy mà con cũng vẫn mạn phép ngài biên soạn thành sách và in quảng bá ra, với ước nguyện duy nhất là mong sao cho các hữu duyên nhơn khi xem đến rồi ít nhiều đều phát khởi nguyện tâm, tu học theo hạnh của ngài để một ngày kia, trong buổi tương lai cũng được như ngài đồng nhau bước về nơi chín phẩm.

Trong niềm quý kính sâu xa dâng lên ngài và với những lý do như vừa trình bạch, một lần nữa con xin đê đầu đảnh lễ và ngưỡng mong ngài mở lòng từ ái mà lượng thứ cho.

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:

Nam mô Hoằng dương môn Tịnh độ – Đại Ninh, Hương Nghiêm cập Phương Liên Tông chủ, Mật Tịnh đạo tràng VÔ NHẤT ĐẠI SƯ, THÍCH THIỀN TÂM Hòa thượng giác linh, tác đại chứng minh.

Viết xong tại chùa Pháp Hoa
(The Dharma Flower Temple)
Tucson, Arizona vào Tiết Trọng Đông,
Năm Quý Dậu, ngày 31-12 dl 1993
(Nhằm ngày 19-11 Âl)
Đồ tôn Ưu bà di BẢO ĐĂNG.
Bái Bạch.

LỜI KỆ SAU CÙNGCỦA NGƯỜI BIÊN SOẠN

Nương theo bút, cảo (1) biên soạn thành,

THIỀN TÂM Hòa Thượng yếu lược lục.

LIÊN DU, VÔ NHẤT Đại sư tăng,

Chi tiết cuộc đời ngài còn nhiều.

Chỉ ghi một ít lên lưu hậu,

Mong sao người đọc đều phát tâm.

Theo hạnh Hòa thượng gắng tu hành,

Để nêu gương sáng hàng hậu học.

Phật huyền ký trong đời mạt pháp,

Ức kẻ tu hành chỉ lý suông.

Nên cố giải thoát đời nay tựa:

Lông rùa, sừng thỏ kiếm sao ra!

Nhưng nếu noi theo nơi gương của,

THÍCH THIỀN TÂM – VÔ NHẤT ĐẠI SƯ.

Tất chẳng luống uổng kiếp tu hành,

Kết cuộc sẽ sanh về CỰC LẠC.

Xin đem công đức biên soạn này,

Hồi hướng khắp môn đồ, pháp quyến.

Nguyện y theo hạnh TÔN SƯ ta,

Câu đáo Tây phương lên thượng phẩm.

Phổ nguyện pháp giới khắp chúng sanh,

Tứ ân, tam hữu gắng hành trì.

Cứu cánh đắc thành vô thượng đạo.

Nam mô A DI ĐÀ PHẬT.
Pháp Hoa Tự Tucson, Arizona
Ưu bà di BẢO ĐĂNG (Kính bái)

(1) Tây Liên bút lục. Nhật Thăng Tu sĩ di cảo

PHẦN PHỤ LỤC

VỀ VỊTRUYỀN NHƠN, TRƯỞNG TỬ của cố Hòa thượng Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM

Ni Sư THÍCH NỮ THANH NGUYỆT
(Phương Liên Tịnh xứ, xứ chủ)

Nếu như đã nói đến cố Hòa thượng Đại ninh THÍCH THIỀN TÂM tôn sư mà không nhắc đến vị truyền nhân, trưởng tử của ngài là:

Ni sư Thích nữ THANH NGUYỆT

thì theo như Bảo Đăng tôi nghĩ: đó là một điều thiếu sót lớn lao vậy.Vì thế nên mới có thêm phần phụ lục sau đây để lược sơ qua về vị trưởng tử này của cố tôn sư Hòa thượng.

Mặc dù chưa được một lần nào diện kiến và tiếp chuyện cùng với ni sư, nhưng qua những lời khen tặng của Đại Đức Bổn sư Thích Hải Quang mỗi khi nhắc đến người, nhất là về những sự trung nghĩa, hiếu thuận, khí tiết (trượng phu nhi nữ) và hết lòng đối với tôn sư là cố Hòa thượng, nên Bảo Đăng cũng thấy lòng mình dâng lên ít nhiều cảm mến ở nơi vị nữ TĂNG đặc biệt, xuất cách này.

Theo lời kể lại của Đại Đức Bổn sư và thêm một ít phần góp nhặt của tôi trong các lần về Việt Nam để sưu tầm tài liệu cho quyển sách này, tôi được biết (một cách khái quát) về ni sư như sau:

– Ni sư người Mỹ Tho,con của một vị võ sư nổi tiếng, thân mẫu của người là một nội trợ đức hạnh, từ hòa và là cháu của sư ông: Cố Hòa thượng Linh Phước Tự (Mỹ Tho).

Chắc có lẽ do nơi thiện căn tu tập trong tiền kiếp chiêu cảm nên ngay từ khi còn thơ ấu, ni sư rất mến mộ Phật pháp và ưa thích tu hành.

Trong thời gian cố Hòa thượng còn nhập thất và ẩn tu ở Cái Bè, (lúc đó ni sư còn nhỏ, tuổi khoảng 15) duyên may gặp được ngài, cảm mến qua phong thái và đạo đức của Đại sư, nên người phát tâm cung kính, lễ lạy Hòa thượng, nguyện nương theo tu học và xin xuất gia, tôn Hòa thượng lên làm sư phụ.

Sau khi được Hòa thượng chấp nhận và thế độ cho xuất gia vào khoảng năm 18 tuổi (còn quá trẻ đẹp), ban đầu được cố Hòa thượng ban tứ cho pháp danh là TÂM NGUYỆT (mặt trăng của chơn tâm), người vừa tu vừa được Hòa thượng cho tiếp tục theo học thế pháp (Trung học) để có đủ trình độ kiến thức phổ thông hầu sau này khả dĩ có thể đảm nhận được gánh nặng hoằng dương đạo pháp và chấp chưởng đạo nghiệp, giang sơn của ngài (Phương Liên tịnh xứ, xứ chủ).

Thời gian này Hòa thượng gởi cho Sư Cô y chỉ (học đạo) với ni sư trưởng Diệu Ngộ (tức là ni sư Phổ Đức, chùa Phổ Đức và chùa Thiện Phước, Mỹ Tho).

Sau khi tốt nghiệp Trung học xong (đậu Tú tài 2) Sư Cô được Hòa thượng đồng ý và chấp nhận cho lên Sài Gòn (cũng để vừa tu học nội điển và ngoại điển (Đại học) thêm. Về phần nội điển thì khi Sư Cô lên Sài Gòn, Hòa thượng gởi cho Sư Cô về học tại ni trưởng Từ Nghiêm và nương y chỉ nơi ni trưởng Đạt đạo tại Pháp Quang tự.

Thời gian này Sư Cô thọ đại giới Tỳ Kheo ni và theo thứ tự trong dòng pháp (xuất gia Bồ tát giới) được đổi lại pháp danh là Như nguyệt, nương y chỉ và cầu pháp cùng với vị thầy thứ ba là ni trưởng HUYỀN HỌC, tổng vụ trưởng tổng vụ ni bộ Bắc Tông nơi chùa Từ Nghiêm. Về mặt ngoại điển thì Sư Cô theo học tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn.

Là một Sư Cô Thích nữ có trình độ học thức và một khả năng văn hóa cao (sinh viên Văn khoa), nên trong thời gian này, thừa lệnh của ni cô, Sư Cô đảm nhận chức vụ giáo học, dạy về thế pháp (dạy văn hóa phổ thông) cho chư ni nơi hai ni trưởng Dược sư Từ Nghiêm, đồng thời kiêm nhiệm luôn cả chức vụ y tá trưởng trông coi việc điều trị thuốc men và săn sóc cho chư ni mỗi khi có ốm đau, bệnh hoạn (tiện hơn là phải đi bác sĩ khám bệnh theo lối của người đời).

Kế tiếp sau đó, tuân lịnh của ni bộ và giáo hội, Sư Cô đảm nhiệm chức vụ giám đốc (hiệu trưởng) trường Bồ đề Văn Lang trông nom và dạy về giáo lý căn bản cho các học sinh trong trường.

Khi Hòa thượng về Đại Ninh để ẩn tu vào cuối năm 1968 thì Sư Cô cũng vẫn còn ở nơi chùa Từ Nghiêm và tiếp tục đảm trách các nhiệm vụ của mình trong ni bộ.

Năm 1969 nhân dịp về Đại Ninh thăm thầy (Hòa thượng bổn sư), vì nhận thấy Hòa thượng sống rất đơn chiếc, thiếu thốn tứ sự và bị đệ tử hộ thất là Tr.K.T. làm eo sách, khó dễ (gia đình của vị này có dụng ý muốn “chiếm giữ” cố Hòa thượng để làm “của riêng’ cho mình nên ít nhiều có âm mưu cô lập Hòa thượng không để cho ngài được tự do hành xử mọi chuyện theo ý định).

Thấy thế nên Sư Cô nóng lòng, sốt ruột cho một bậc tôn sư và cũng là Thầy Tổ của mình, sau khi ngỏ lời xin hộ thất và được sự hứa khả của cố Hòa thượng, Sư Cô liền trở về Sài Gòn bạch lên ni bộ xin hoàn trả lại tất cả chức vụ của mình rồi khăn gói, thân gái dặm trường, nhắm hướng Phú An và Đại Ninh trực chỉ.

(Đến đây Bẳo Đăng lược thuật theo sự kể lại của Đại Đức Bổn sư T.H.Q. về việc vì sao mà cố Hòa thượng lại chấp thuận để Sư Cô về hộ thất cho ngài một cách đặc biệt dễ dàng như vậy?)

– Khi còn hầu cận bên cạnh Hòa thượng (trước năm 1977) tự thân của thầy bổn sư có nghe cố Hòa thượng kể lại về lý do này như sau:

Lúc đó cố Hòa thượng đang còn ở tại Hương Quang tịnh thất và từ chúng cũng đã có vân tập về đây một số khá đông rồi. Đêm ấy ngài nằm mơ thấy mình đang đi trên con đường nhỏ xuyên qua một sơn cốc (hẻm núi) thì bỗng nhiên bị cường sơn, thảo khấu (ăn cướp núi) ở đâu không biết ào ra vây phủ đòi nạp tiền “mãi lộ” và áp tới bắt ngài, đang khi ngài còn bối rối thì bỗng nhiên có thêm giông gió thổi đến nữa và rồi mưa rơi như trút nước, làm cho mình mẩy của ngài bị ướt loi ngoi, bùn lầy văng lấm quần áo hết!

Trong mơ ngài nghĩ rằng:

– Mới vừa bị sơn tặc cướp đồ đạc xong bây giờ lại bị thêm mưa và bùn lầy làm cho dơ bẩn nữa. Bữa nay sao mà xui xẻo quá. Đang nghĩ ngợi và buồn như vậy thì ngài thấy từ phía trên không trung sa xuống ba con rồng trắng (bạch long) bao bọc chung quanh ngài, kế đó gió, mưa, sấm sét rơi rớt ào ào, nổ vang trời động đất, Hòa thượng thấy vậy mới ngồi xuống chắp tay niệm Phật, một hồi lâu mưa dông chấm dứt, ngài mới đứng dậy mà đi, thì thấy ba con bạch long kia cả mình đều bị xơ xác hết (vì đem thân che gió mưa cho Hòa thượng) ngài mới khen rằng:

– Giỏi lắm, biết xả thân làm hộ pháp giúp ta như vậy, sau này thầy sẽ đền ơn.

Ba rồng ấy gật đầu chào rồi hiệp thân lại thành ra một con rồng duy nhất, bay bổng lên không đi mất.

Sau khi thức dậy ngài mới suy nghĩ ý nghĩa của điềm mộng thì ngài biết rằng sau này khi tử chúng vân tập về đây nương theo mình tu tập rồi thì thế nào mình cũng sẽ bị họ quấy rối, gieo tiếng thị phi và tranh danh, đoạt lợi với mình trong cảnh “trâu cột ghét trâu ăn” làm cho mình bị tổn thương (mang tiếng tăm) không ít – và quả nhiên y chang như vậy (đó là việc sau xin miễn viết lên vì không là bản ý và phần chánh trong đoạn phụ lục này).

Còn ba con rồng kia là hộ pháp đến giúp mình. Vậy thì ứng vào ai đây nhỉ? Cố Hòa thượng tự hỏi như vậy …và ngài chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra cho biết.

Đến khi Sư Cô Như Nguyệt từ Sài Gòn lên thăm thì ngài nghĩ cô chính là con rồng ấy vì Sư Cô tuổi Thìn (Canh Thìn) nhưng ngài cũng còn thắc mắc một điều là trong mơ ngài thấy đến ba con rồng kia. Vậy thì hai con nữa là ai? Trong mấy ngày Sư Cô Như Nguyệt ở Đại Ninh thăm thầy và sau đó Sư Cô ngỏ lời xin được về ở luôn tại đây để hộ thất cho cố Hòa thượng thuận duyên chuyên tu hơn thì ngài cũng chưa chấp thuận nữa. Nhân dịp hỏi kỹ lại ngày tháng năm sinh của cô – để cho có thêm yếu tố quyết định Yes hay No – thì ngài mới chợt khám phá ra rằng Sư Cô sanh nhằm vào ngày THÌN, tháng THÌN và năm THÌN (3 con rồng nằm trong một người Thích nữ này).

Nhớ đến điềm chiêm bao trước đây, nên ngài biết rằng người đệ tử hộ thất, hộ pháp cho mình trong những năm dài còn lại tới đây chính là vị Sư Cô này – đệ tử thế độ – của mình chớ không phải là ai khác nữa.

Do vì lý do đó nên ngài mới chấp nhận dễ dàng cho Sư Cô được về bên cạnh ngài như vậy trong khi có rất nhiều người “nạp đơn, ứng tuyển” để được làm thị giả hầu ngài mà ngài vẫn không cho và đây cũng là một nguyên nhân khiến cho ngài (và cả Sư Cô nữa) bị nhiều tai tiếng sau này.

Sau khi về Đại Ninh xong, Sư Cô được cố Hòa thượng đổi pháp danh lại là THANH NGUYỆT (trăng tỏ đêm rằm) và dùng pháp danh mới này mãi cho đến ngày nay.

Là một nhi nữ thuộc về loại “trắng da, dài tóc” (ý quên, ở đây phải gọi là trắng da, trọc tóc mới đúng vì đương sự là một Sư Cô), từ lâu đã quen nơi chốn thị thành, chùa cao, miếu rộng, nay theo thầy về Đại Ninh là chốn núi rừng heo hút, sơn lam, chướng khí chập chùng (nghĩ cũng đáng thương và tội nghiệp lắm) nên Sư Cô thường hay bị bịnh hoạn èo uột, lặt lìa, có nhiều lúc tưởng đâu sắp sửa về “chầu Phật tổ”!

Từ đó về sau, trải qua biết bao gian khổ nhọc nhằn khó mà kể cho xiết được … rất nhiều đệ tử khác vì chịu không nổi các sự vất vả, thiếu thốn nơi chốn núi rừng nên lần lượt bỏ ngài trở về thành phố hết, chỉ riêng còn lại có mỗi một mình Sư Cô là bao giờ và lúc nào cũng vậy, vẫn kiên tâm trì chí và quyết sống chết với thầy, không vì bị các chướng duyên và miệng đời thị phi mà trốn chạy như bao nhiêu người khác.

Là một Sư Cô có trình độ học thức cao, lại thêm đảm đang, tháo vát nên một tay người lo lắng hầu hết mọi chuyện trong ngoài, nhiều khi dùng thân của mình như là một cái mộc sống để “đỡ đạn” cho thầy, nhờ như vậy nên cố Hòa thượng mới được yên ổn để tịnh tu cho đến ngày viên tịch.

Có người hỏi Sư Cô rằng:

– Vì sao còn trẻ, đẹp (quá) như vậy mà Sư Cô lại chịu cam tâm chôn vùi tuổi xuân của mình trong lớp áo nâu sòng nơi chốn thiền môn, suốt đời nếm toàn mùi tương, chao, dưa muối. Trong khi các cô gái khác cùng lứa tuổi thì vẫn ở ngoài đời, vui cùng mộng ước cao sang, chồng con hạnh phúc?

Ni sư không trả lời thẳng vì lý do này, lý do kia mà người chỉ dùng vài đoạn thơ để bày tỏ sự cảm nghĩ về đời qua ý của mình như sau:

Xét phận hồng nhan nghĩ chạnh lòng,

Khi nhìn hoa héo giữa đêm đông.

Đang hồi thơm đẹp ong quanh quẩn,

Hương sắc tàn phai bướm lạnh lùng.

Thuở trước còn mơ tiên lẫn tục,

Bây giờ đã rõ sắc là không.

Mười hai bến nước trong hay đục,

Trong, đục do mình khó cậy mong!

Khó cậy mong nhờ bạn thủy chung,

Chi bằng năm tháng giữ thung dung.

Tiêu dao ngày tháng qua chân lý,

Tiếng kệ lời kinh ấy bạn lòng.

Lướt chiếc thuyền từ qua bể ái,

Ơn đền, nghĩa trả cửa huyền mong.

Ngự tòa sen báu nên danh phận,

Ấy đạo hồng nhan thoát cõi hồng.

Thiệt rất là hay, đáng khen, đáng trọng vậy thay!

Đó mới đáng là trượng phu nhi nữ vậy. Nhơn viết đến đây, Bảo Đăng chợt nhớ lại cổ thi cũng có bài thơ (với ý tương tự) như sau:

Hoa đào chớm nở dập dìu ong,

Đến khi hoa rụng hết trông ai nhìn!

Hỏi chúa hoa chẳng lời đáp lại,

Xuân ba phần còn mãi hay không?

Hay là nửa cuốn dòng sông,

Nửa rơi trên đất, chập chồng gió sương!

Do vì hiểu và thấy biết được bộ mặt thật của đời như vậy nên ni sư lúc nào cũng vẫn an nhiên và phấn khởi trong đường tu tập của mình, mặc dù là ở chốn “khỉ ho, cò gáy” mà lòng chẳng thấy chút đơn độc, sầu buồn nào hết.

Ni sư có bày tỏ tâm mình qua ý thơ sau:

Hạnh đẹp, nâu sòng đẹp,

Lòng an, cảnh lặng an.

Thềm hoa trăng bạc sáng,

Nhà tịnh gió hương lan.

Sắc, không đường lối tỏ,

Sen ngọc nở hồng nhan.

Quả đúng là một vị Sư Cô có đầy đủ chí khí và chân tài, thực học, rất xứng đáng được cố Hòa thượng tuyển chọn làm trưởng tử và là truyền nhân chấp chưởng y bát, môn hộ của ngài sau khi Đại sư viên tịch.

Trong biên bản (sau ngày cố Hòa thượng quy Tây xong) gởi cho Hòa thượng Thích Từ Mẫn, viện chủ Linh Sơn tự kiêm chánh đại diện cho giáo hội tại tỉnh Lâm Đồng, Hòa thượng Thích Pháp Lan có ghi mấy lời bình luận về ni sư trưởng tử Thích nữ Thanh Nguyệt như sau:

“Sách có câu: “Thiên văn bất như nhứt kiến”, ngàn lần nghe, không bằng một lần thấy. Tôi thấy ni sư Thanh Nguyệt là người ni chân tu, có trình độ, có hiếu hạnh, có uy tín rất nhiều.

Bạch Hòa thượng, đây là bất sai nhứt từ, đúng y như việc thấy, việc nghe khi trước”.

Cho đến nay, hơn một năm trôi qua sau ngày cố Hòa thượng Đại Ninh quy Tây, một mình ni sư trưởng tử (cùng với các môn đồ pháp quyến thân tín) vẫn kiên trì bảo toàn chánh pháp của ngài và chấp chưởng sư môn, thay quyền cố sư phụ giáo hóa các hàng môn đệ.

Phương Liên tịnh xứ đây tuy đã vĩnh viễn vắng bóng của cố Hòa thượng tôn sư, nhưng ni sư trưởng tử vẫn còn đây và trên đồi ngọn tháp “hoài vọng tôn sư” kia vẫn còn mang đầy đủ hình bóng cùng với kỷ niệm của ngài – trên đất Mỹ, cháu ruột của ngài là Đại Đức Bổn sư Thích Hải Quang vẫn mãi còn tiếp tục nối chí Đại sư, hoằng dương Tịnh độ và thầy sẽ phổ biến rộng rãi giáo pháp của ngài hơn nữa nơi quốc ngoại.

Thế nên danh tiếng của PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ, MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG” và dòng pháp của cố Hòa thượng Đại Ninh tôn sư vẫn còn mãi mãi vang danh, không bao giờ đoạn tuyệt.

Bảo Đăng xin được dừng bút nơi đây.

Nguyện cầu hồng ân Tam Bảo hằng luôn gia hộ cho ni sư trưởng tử – Phương Liên xứ chủ, Mật Tịnh đạo tràng Thích nữ Thanh Nguyệt hằng luôn được đầy đủ đạo lực để bảo tồn sự nghiệp đại pháp của sư ông và trong buổi tương lai khi quả mãn, công thành cũng sẽ được cùng hội ngộ với tôn sư nơi chín phẩm sen của miền An dưỡng.

Hoàn tất vào tiết
Trọng đông – Quý Dậu niên
Ngày mồng 1 tháng 12 Âl
Phật tử BẢO ĐĂNG
Cẩn bút.

PHẦN PHỤ LỤC: NHỮNG VẦN THƠ THƯƠNG NHỚ

Phật tử Bảo Đăng

Trích lục

Lời người trích lục:

Các bài thơ trong phần phụ lục dưới đây được trích ra từ trong thi tập:

“Ân sư Ngùi Tưởng

Hải Quang bách vịnh thi” (1)

do Đại đức bổn sư THÍCH HẢI QUANG – Viện chủ kiêm Trụ trì PHÁP HOA Tự Tucson – Arizona cảm tác ra từ những thời gian trước kia cho đến ngày biết được tin chú ruột của Thầy – Hòa thượng Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM, một bậc thầy tôn sư hoằng dương về Tịnh độ tông của Phật giáo Việt Nam – viên tịch ngày 14/12 dl 1992 (21-11Âl Nhâm Thân).

Vì nhận thấy có một sự liên hệ mật thiết, đặc biệt khác hơn các trường hợp thông thường giữa Đại Đức Bổn sư và Cố Hòa thượng qua các phương diện sau đây:

– Tình thân cốt nhục trong tông tộc (chú cháu ruột)

– Nghĩa thầy trò tình sư đệ

– Thúc phụ (chú ruột cũng như cha)

v.v…

Hơn nữa, từ ngày cố Hòa Thượng viên tịch đến nay, vì bận nhập thất, ẩn tu vô thời hạn (theo lịch của Hòa Thượng khi còn sanh tiền) nơi miền Trung Mỹ, một làng quê nhỏ, hẻo lánh, xa xôi nên thầy không về Việt Nam, Phương Liên Tịnh xứ, để thọ tang sư phụ và cũng là chú ruột của mình được (Vả lại, vì giữa hai nước Việt Mỹ không có sự bang giao về chánh trị, nên quý Thầy vì bị cái huông hoạt động chánh trị do một số quý Thầy khác ngoài hải ngoại chủ trương cho nên, nhất là ở bên Mỹ, không có một vị tăng nhân nào dám đơn thân về lại quê nhà. Hoàn cảnh của Đại Đức Bổn sư Thích Hải Quang đây cũng vậy).

Và như thế, theo thói thường tình của người đời là: nếu như không cạn xét, cùng suy, ắt sẽ cho rằng thầy lỗi đạo với cha chú, thầy tổ và bất nghĩa với sư môn.

Do vì cũng có ý muốn minh xác lại cho thầy một phần nào về trường hợp nầy, nên Bảo Đăng tôi, bằng vào một cách gián tiếp, mạn phép Đại đức trích đăng vào đây một ít bài thơ, mà trong đó Bảo Đăng thấy đã gói trọn không biết bao nhiêu là tâm tình tha thiết của Đại Đức đối với Thầy Tổ, huynh đệ và sư môn, mà chưa hỏi qua ý kiến của thầy qua nguyên bản của thi tập:

– “Ân sư Ngùi Tưởng, Hải Quang bách vịnh thi” mà thầy còn để lưu lại trong tư thất (liêu) của thầy nơi bổn tự nhân dịp về lễ tiểu tường (đám giỗ đầu) của cố Hòa Thượng năm rồi (1993).

Các phần trích lục dưới đây, Bảo Đăng xin đặt tạm cho một tên là:

– “NHỮNG VẦN THƠ THƯƠNG NHỚ”

Và sau đây là một số ít – những bài thơ – được trích lục ra từ nơi thi tập…

Ghi chú:

(1) Ân sư ngùi tưởng Hải Quang bách vịnh thi.

(100 bài thơ tưởng nhớ đến thầy của ĐĐ. Hải Quang)

* Bài thơ thứ 5/100:

NHỚ

NHỚ thuở con đi lắm ngậm ngùi,

NHỚ thầy đưa tiễn, cạn niềm vui.

NHỚ câu nhắn nhủ thầy ban dạy,

NHỚ vững đường tu chớ bước lui.

NHỚ dáng thanh thanh thầy bước dạo,

NHỚ thất Phương – Liên lắm ngọt bùi.

NHỚ NGUYỆT ni sư ngày giả biệt,

NHỚ hoài tấc – dạ thuở nào nguôi.

Thích Hải Quang
Trại tiếp cư tị nạn Terampa – Indonésia (tháng 5/1979)

Lời chú giải của người trích lục:

– Bài thơ nầy được cảm tác ra vào khoảng 1 tháng sau ngày thầy rời khỏi quê nhà và đến được nơi trại tị nạn bên Indonésia. Ý thơ đã nói lên lòng nhung nhớ đến thầy, bạn và sư môn của Đại Đức (rất nhiều).

* Bài thơ thứ 16/100:

TỰ THÁN

(Tự than thở)

Từ dạo biệt thầy những đến nay,

Đất khách thân con luống lạc loài.

Đã biết bao lần tuôn lệ đổ,

Bao lần sầu khổ mấy ai hay!

Chấp tay nguyện đức DI ĐÀ độ,

Nhứt bộ hồi quy đoạn khứ lai (1)

Ghi khắc kim ngôn thầy nhắn gởi,

Gìn câu niệm Phật đoạn trần ai.

Thích Hải Quang 1986
(Lancaster – Pennsylvania)

Ghi chú:

(1) Câu nầy ý nói: Một bước về cõi Phật là không còn sanh tử nữa (Một bước về Tây chẳng đến, đi)

Bài thơ nầy được cảm tác ra trong các thời gian thầy cô thân cô thế làm Phật sự tại Lancaster (và bị hội Phật giáo nơi đây lợi dụng sức, tài, tiền bạc (của tín thí cúng dường cho thầy).

Có thể nói đây là một giai đoạn mà thầy buồn nản nhất.

* Bài thơ thứ 29/100:

ĐỌC THƯ THẦY

(Thơ của Hòa thượng gởi qua Mỹ dạy cháu mình)

Hải Quang con gắng vững đường tu,

Ba cõi không an vốn ngục tù (1)

Mạt kiếp tâm người gian hiểm lắm,

Nhắn gởi về con một chữ NHU.

Thân khổ, cảnh đời bao nỗi khổ,

Câu PHẬT gìn tâm phá ám u

Cõi tạm chớ ham điều huyễn ảo,

Trời TÂY, AN LẠC mới thiên thu.

Thích Hải Quang
(New York City – 1990)

Ghi chú:

(1) Ba cõi đây là Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới thiên, cả ba cõi nầy vẫn còn nằm trong vòng sanh tử.

– Bài thơ nầy Đại Đức cảm tác ra vào năm 1990 tại Newyork trong thời gian mà tâm tư của thầy đầy ưu não vì bị Hội Phật giáo nơi đây phản bội, lợi dụng và vu khống… khiến thầy buồn, phải bỏ chùa ra đi.

* Bài thơ thứ 60/100:

CẦU THẦY LÀNH BỆNH

(Nhân nhận được tin báo sư phụ thầy, Hòa thượng Đại Ninh đau nặng)

Mấy lượt nghe tin, mấy lượt buồn,

Bịnh thầy nan trị chắc không suôn!

Tiền khiên nghiệp kết đành cam chịu,

Con chấp tay quỳ lụy đổ tuôn.

Khấn nguyện PHẬT TRỜI xin hộ độ,

Cho thầy sớm khỏe lướt qua truông.

Viễn xứ con còn thân lữ thứ,

Chờ gặp thầy ôi chớ vội buông.

Thích Hải Quang
(Tháng 2/1991 Pháp Hoa Tự Tucson – Arizona)

– Bài thơ nầy được cảm tác ra vào đầu năm 1991 tại chùa Pháp Hoa Tucson, Az sau ba bốn lần nhận được thơ báo tin Hòa Thượng (bổn sư) Đại Ninh đau nặng, e qua không khỏi được.

* Bài thơ thứ 70/100:

KHÓC THẦY

(Nhân biết được tin Hòa thượng Đại Ninh – chú ruột và cũng là Sư phụ – viên tịch)

Cúi đầu đảnh lễ đến phương xa,

Nửa khóc ân sư, nửa ruột rà. (1)

Đất khách không về thân lữ thứ,

Đau lòng thương hận, tủi cho ta.

Thúc phụ hoàn nguyên tám giới ngoại, (2)

Quả mãn, công thành đoạn kiếp ma. (3)

Tâm hương con kính dâng Hòa Thượng,

Nguyện thầy lạc quốc chứng liên hoa

Thích Hải Quang 18/12 dl/92
(Hương Vân Tịnh thất – NE)

Ghi chú:

(1) Nửa phần khóc thầy, nửa phần khóc chú

(2), (3): thúc phụ (chú, cha) đã hầu Phật, ra khỏi 3 luân hồi rồi – công thành, quả mãn không còn bị lâm vào cảnh sanh tử nữa. Bài thơ nầy (và các bài thơ kế) thầy cảm tác ra tại Hương Vân tịnh thất – là nơi thầy bế thất, ẩn tu tại Nebraska, sau khi được biết tin (cố) Hòa thượng viên tịch ở bên quê nhà, tủi thân vì mình không về thọ tang được.

* Bài thơ thứ 76/100:

THỌ TANG THẦY

(Lễ thọ tang Hòa thượng bổn sư Tại PHÁP HOA Tự, Tucson – Arizona)

Chánh điện PHÁP HOA lễ sự bày,

Án tiền vang dậy tiếng kinh khai.

Khăn tang một sải đầu con đội,

Cúi lạy niềm riêng giọt vắn, dài.

Những tưởng có ngày còn gặp lại,

Ngờ đâu từ đó hết duyên may (1)

Nén hương con nguyện cầu linh giác,

Tam giới từ đây bất tái lai.

(Mà cõi trời Tây sớm đáo lai)

Thích Hải Quang 19/12 dl – 1992
(Pháp Hoa Tự, Tucson – Ngày về làm lễ chịu tang)

Ghi chú:

(1) Ngờ đâu từ ngày ly biệt đó đến nay không còn có duyên may được gặp lại chú – thầy (cố Hòa thượng) thêm lần nào nữa cả.

Lời chú giải của người trích lục:

Thơ xưa có câu rằng:

Dép dưới giường trên giường bỗng biệt

Sống ngày nay dễ biết ngày mai

Mạng người hô hấp cho hay,

Nghĩ cơn vĩnh biệt, tuyền đài mà đau.

Thích Thiền Tâm
(Khuyến tu kệ)

Ôi! Có cảnh sanh tử, ly biệt nào mà không gây nhiều đau khổ ư? Ta bà cõi tạm nầy nào có chi vui!

* Bài thơ thứ 82/100:

LẠY TẠ ƠN THẦY

Lệ nhòa đôi mắt hướng PHƯƠNG LIÊN, (1)

Cúi lạy ơn thầy đã dạy khuyên.

Lạc quốc quê xưa thầy trở bước,

Ta bà con ở lắm truân chuyên.

Cốt nhục rẽ chia từ đấy biệt,

Cố quận thầy nay dứt não phiền. (2)

Ngũ trược, luân hồi thầy thoát hẳn,

Qua bờ sanh tử, đáo Tây thiên. (3)

Thích Hải Quang
(Hương vân tịnh thất – NE tháng 2/93)

Ghi chú:

(1) Phương Liên: Là phương liên tịnh xứ, nơi trụ xứ của cố Hòa thượng Đại Ninh Thích Thiền Tâm.

(2) Cố quận: ý nói cõi Cực lạc là nơi quê cũ (của người tu Tịnh độ) cầu được sanh về.

(3) Đáo tây thiên: là về lại nơi cõi Tây phương của Đức A DI ĐÀ PHẬT.

Lời người trích lục: – Bài thơ nầy thầy cảm tác ra sau lễ thọ tang và trở về Ohama nhập thất lại – trong ý niệm lạy tạ ơn dạy khuyên, giáo hóa của cố Hòa Thượng cho thầy:

– “Ơn giáo dưỡng, một đời nên huệ mạng,

Nghĩa ân sư, muôn kiếp khó đền bồi”

* Bài thơ thứ 93/100:

SẦU LY BIỆT

Vẫn biết rày thầy ngự bảo liên,

Vô sanh, An dưỡng dứt tiền khiên.

Nhưng tình cốt nhục, ân sư biệt,

Lệ sầu sao khỏi động niềm riêng!

Bao năm chú, cháu cùng hôm sớm,

Đất khách thân côi ứa lụy phiền.

Trời Tây con nguyện thầy nay được,

Sen vàng, hiệp chưởng lễ KIM TIÊN (1)

Thích Hải Quang 5/1993
(Hương vân thất – Nebraska)

Ghi chú:

(1) Kim Tiên: là chỉ cho đức A DI ĐÀ PHẬT

Lời người trích lục: Bài thơ nầy ĐƯỢC CẢM TÁC RA cũng trong hoàn cảnh nhớ thương và buồn tử biệt tại Hương vân thất của thầy ở Ohama:

Có câu rằng:

Xót cảnh kẻ đi người ở lại,

Tình sâu sao nén lệ sầu tuôn!

* Bài thơ thứ 95/100:

NGÙI NHỚ DÁNG XƯA

(Nhớ Lại từ dung của thầy và cũng là chú ruột mình)

Con nhớ lời thầy đã dạy khuyên:

– “HẢI QUANG con gắng đoạn tình riêng, (1)

Chớ để trần lao ngăn cản bước,

Lỡ uổng tiền căn, mất tịnh duyên.”

Lời dặn năm xưa nay vẫn tại,

Mà bóng thầy đâu dáng dịu hiền?

Ta bà nhơ khổ thầy ra khỏi,

An dưỡng trời Tây vĩnh viễn yên.

Thích Hải Quang 8/93
(Hương vân tịnh thất – NE)

Ghi chú:

(1) Ý nói tình lục thân quyến thuộc

Lời người trích lục: Bài thơ nầy thầy cảm tác ra để mà thương, mà nhớ lại từ dung và bóng dáng thầy xưa của mình cùng với những lời khuyên răn dạy dỗ ngày nào của cố Hòa Thượng đã dành cho thầy.

* Bài thơ thứ 100/100:

TỎ NỖI LÒNG TÔI

(Cho ni sư trưởng tửTHÍCH THANH NGUYỆT, là huynh đệ đồng sư, đồng môn)

Gởi về Tịnh xứ nổi lòng tôi

Tin thầy viên tịch đoạn trường ôi!

Thúc phụ quy TÂY không ước hẹn,

Não nề tôi đếm chuỗi ngày trôi.

Nhắn NGUYỆT ni sư xin chớ trách,

Không về trong cảnh lửa dầu sôi.

Từ khi an thất miền sơn cước. (1)

Hẩm hút phận nghèo, lại cúc côi! (2)

An dưỡng trời Tây vĩnh viễn yên.

Thích Hải Quang
(21/11Âl 1995, Quý Dậu niên, sau ngày lễ Tiểu tướng của sư thúc phụ)

Ghi chú:

(1) Câu nầy ý nói khi về bế quan tịnh tu tại miền quê nhỏ ở Omaha – Nebraska

(2) Từ đó (khi nhập thất) đến nay nơi ấy thầy chỉ có một thân, một mình, sống đói nghèo, thiếu và côi cút nơi xứ lạ người xa – làm sao về quê được (mà trách)!!

LỜI KẾT:

Kính bạch thầy;

Trên đây là những “Vần thơ thương nhớ” của thầy dành cho Sư Tổ, cùng với các cảnh cũ, quê xưa… mà thầy đã thể hiện được qua nội tâm mình trong tập thơ ÂN SƯ NGÙI TƯỞNG.

Con xin chân thành sám hối với thầy vì đã thêm vào phần phụ lục nầy mà không trình qua ý kiến và sự đồng ý của thầy trước. Nhưng con tin rằng thầy sẽ hiểu cho tâm con và vui lòng hỷ thứ cho.

Con xin thành kính đảnh lễ và nguyện cho thầy sớm được bình tâm trong câu niệm Phật nơi tịnh thất.

Các đệ tử chúng con nơi PHÁP HOA Tự Tucson, Arizona nầy, bao giờ cũng vẫn là những đệ tử ngoan của thầy, luôn biết ơn (giáo hóa) và biết báo ơn

Đệ tử,
Ưu bà di BẢO ĐĂNG
Kính bái

VÔ NHẤT ĐẠI SƯ THÍCH THIỀN TÂM- MỘT CAO TĂNG CẬN ĐẠI
Soạn giả: Ưu Bà Di BẢO ĐĂNG
Giảo chánh: THÍCH HẢI QUANG
PHÁP HOA TỰ – TUCSON – ARIZONA

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *