LỜI GIỚI THIỆU
Quyển sách VÔ NHẤT ĐẠI SƯ – THÍCH THIỀN TÂM – MỘT CAO TĂNG CẬN ĐẠI này do Ưu bà di BẢO ĐĂNG sau gần một năm dài chí tâm và đơn độc biên soạn thành.
Vì là một tại gia đệ tử của tôi (gần 10 năm qua) nên cô cũng được xem như là môn đồ, pháp quyến của ngài – Cố Hòa thượng Đại Ninh – THÍCH THIỀN TÂM và là một đồ tôn trong dòng pháp (pháp duệ) của sư môn, đã và đang đảm nhận các Phật sự – Hoằng dương Tịnh độ tông theo đúng đường lối, tôn chỉ của cố Hòa thượng – qua sự chỉ đạo của tôi – tại PHÁP HOA tự Tucson, Arizona, USA từ năm 1985 cho đến hiện nay.
Với ý niệm báo đức cho sư ông, dù là chưa được duyên may diện kiến và thọ pháp ở nơi Đại sư lần nào, nhưng qua ý của câu:
Cây có gốc mới trổ nhành, sanh ngọn,
Nước có nguồn mới bể rộng, sông sâu …
Nên vào thời gian khoảng hơn một năm trước đây, cô có trình bạch lên tôi ý định muốn biên soạn quyển sách “đặc biệt” này. Tôi cũng đã có nói cùng với cô rằng: đây là một việc rất khó chớ không phải dễ … ngay như thầy e cũng còn không đủ sức thực hiện nổi huống chi là con. Nhưng cô rất quả quyết và tin tưởng một cách mãnh liệt rằng:
– Thế nào rồi đây giác linh của Sư Ông cũng sẽ chứng minh và “phò hộ” cho con thành toàn ý định…
Thấy cô kiên quyết và phát đại tâm như thế nên tôi hứa khả sự trợ duyên và tùy hỷ của mình.
Sau hai lần về Việt Nam và trải qua rất nhiều vất vả, xuôi ngược đến đi, từ Sài Gòn ra miền Trung, từ miền Trung trở về lại Sài Gòn rồi xuống Mỹ Tho, Bến Tre, Gò Công, Chợ Gạo… là những nơi đầy kỷ niệm đáng ghi nhớ nhất mà khi xưa – chú ruột tôi – cố Hòa thượng Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM, lúc còn sanh tiền đã từng có một thời gian lâu, mau… nào đó lưu trú ở đấy trên bước đường tu tập và hoằng dương đạo pháp.
Từ các nơi ấy, cô đã thu thập được khá nhiều tài liệu liên quan đến cuộc đời tu hành của Đại sư, khi trở về Mỹ lại, cô liền bắt tay ngay vào việc khởi công biên soạn, đồng thời cô cũng đã thỉnh cầu tôi tích cực cung cấp thêm cho cô các chi tiết khác nữa về cuộc đời của cố Hòa thượng mà tôi đã từng nghe biết hay còn lưu giữ được.
Vì xét thấy quả nhiên cô có một “tấm chơn tình” đối với Sư Ông – dù chỉ là một đồ tôn khiếm diện – mà ngay chính trong các hàng môn đồ, pháp quyến của ngài cũng ít ai có được tâm thành như thế nên tôi rất lấy làm an ủi, cảm động và sau đó tôi bèn trợ giúp cho cô thêm các tài liệu khác về cuộc đời của cố Hòa thượng từ thuở còn nhỏ cho đến khi xuất gia, mãi đến sau này để cho cô được thuận duyên hơn hầu sớm hoàn thành tâm nguyện.
Một năm sau, cô đệ trình lên bản thảo để nhờ tôi duyệt khán.
Xem xong, tôi rất mực kinh ngạc, hy hữu và vô cùng hoan hỷ trước cái công trình phi thường này – một quyển sách tuyệt diệu mà có lẽ chính tôi (liệu sức) cũng khó thể nào hoàn tất nổi – huống lại là cô, một đệ tử mới phát tâm tu học chỉ trong vòng chưa đầy 10 năm ư?!
Rồi tôi chợt nghĩ:
– Nếu không phải là có giác linh của chú tôi – cố Hòa thượng Đại Ninh – trợ giúp hay âm thầm ám trợ cùng gia hộ cho cô tăng trưởng thêm trí huệ thì chắc chắn là quyển sách này không thể nào thành hình một cách mỹ mãn tuyệt vời như thế này được cả.
“Hữu cầu tất ứng” chính là đây chăng?
*******
Nơi đây, trong phần viết đôi lời giới thiệu này, trước hết tôi cũng xin thay mặt cho đại gia đình bên họ nội của tôi – Sư Cô Phương Liên Thích nữ THANH NGUYỆT trưởng tử của Đại sư cùng với các môn đồ, pháp quyến thân tín của ngài, tại gia cũng như xuất gia, trong cũng như ngoài nước, hoặc gần, hoặc xa … và sau hết là riêng cá nhân tôi – cháu đích tôn kiêm đệ tử của cố Hòa thượng – gởi đến Ưu bà di BẢO ĐĂNG những lời cảm ơn chân thành và thân thiết nhất, bởi vì cô đã làm xong được một việc hy hữu mà từ trước đến nay, trong các hàng môn đệ của ngài chưa hề có một ai đủ khả năng để hoàn tất được việc đại sự như thế này – kể luôn cả tôi nữa!
Qua tác phẩm đầu tay đặc biệt và “vô tiền khoáng hậu” này, cô đã hoàn mãn được việc “báo tôn sư ân đức” một cách hết sức tuyệt diệu, phi thường – không phải chỉ bằng ngôn từ suông trên đầu môi chót lưỡi như những ai khác nơi chốn thế tình – mà lại là bằng vào một hành động hết sức tích cực đúng với câu “ngôn hành hợp nhất, sự lý đủ đầy” rất cần phải có của người Phật tử trên bước đường tu, cầu chơn giải thoát.
Với tư cách của một người thầy, bổn sư dẫn dắt cô trên đường đạo, tôi cũng rất hãnh diện có được một người đệ tử như cô, mà đã gần 10 năm qua cùng chung tay, sát cánh với thầy trong công việc duy trì và phát huy đạo pháp đúng theo lời Phật dạy, hòa hợp cùng với đường lối của sư môn nơi PHÁP HOA tự Tucson bé nhỏ, hẻo lánh của miền sa mạc Arizona này.
Xin gởi đến cô một người đệ tử trung kiên, một Phật tử thuần hành – dày công trong Phật sự từ bấy lâu nay và sẽ còn mãi mãi đến sau này – đã làm cho Phật giáo (tại địa phương Tucson) mỗi ngày càng thêm tăng huy rạng rỡ, lời khen tặng sau đây:
KHEN ƯU BÀ DI BẢO ĐĂNG
Khá khen BẢO ĐĂNG Ưu bà di,
THIỀN TÂM lược sử quyết lòng ghi
Thân yếu nhưng người tâm chẳng yếu,
Báo đức Sư Ông quản ngại gì.
PHÁP HOA PHẬT TỰ từ lâu đã,
Hoằng pháp gian truân kể xiết chi.
Đấy chính tại gia BỒ TÁT hạnh,
Nương theo đường PHẬT bước chân đi.
Trọng Đông – Quý Dậu niên
Sa môn THÍCH HẢI QUANG
(Cảm tặng)
Những mong sao cho trong các hàng môn đệ của cố Hòa thượng Đại Ninh, Vô Nhất Đại sư THÍCH THIỀN TÂM còn có thêm nhiều đệ tử, đồ tôn biết nhớ ơn, báo đức cho THẦY, TỔ và sư môn cũng y như đồ tôn: Ưu bà di BẢO ĐĂNG đây vậy.
Thành kính và mong mỏi vậy thay.
Viết tại Hương Vân tịnh thất
Omaha – Nebraska
Vào tiết Trọng Đông năm Quý Dậu
(Phật lịch 2538 – Dl. 1994)
THÍCH HẢI-QUANG
(Cẩn bút)
THAY LỜI TỰA
Thời gian… gần đây (cuối năm Nhâm Thân 1992 dương lịch), Phật giáo Việt Nam đã bị một tổn thất cực kỳ lớn lao qua sự viên tịch của cố đại lão Hòa Thượng Đại Ninh THÍCH THIỀN TÂM, một bậc danh đức cao tăng, một bậc thạc sư Phật học, và là một tôn sư hoằng dương 2 pháp môn Tịnh độ cùng Mật tông lừng lẫy nhất của Phật giáo Việt Nam đương kim, mà từ lâu đại danh của Ngài đã được hầu hết các Tăng, Ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam khắp nơi trong quốc hội cũng như ngoài quốc ngoại cúi đầu ngưỡng vọng, nhất là từ năm 1974 trở về sau này, khí tiết và chí nguyện giải thoát kiên cường của Ngài càng thêm sáng tỏ như ánh nhật quang phổ chiếu rạng ngời.
Sau tang lễ của cố Hòa Thượng, có vài ba vị đời cũng có, đạo cũng có, phát tâm muốn viết lại đôi phần tiểu sử của Ngài, trước là để hiển dương đức hạnh của một bậc vãng sanh cao tăng, sau là để lưu truyền lại cho các hàng hậu học cùng chư thiện tín lấy đó làm một gương sáng cho cuộc đời tu học Phật pháp và cầu giải thoát của mình.
Nhưng có một điều gây nhiều khó khăn và trở ngại nhất cho ý định này là cố Hòa Thượng đã không cho lưu lại các chi tiết về cuộc đời của Ngài. Theo lời kể lại của ĐĐ. Thích Hải Quang là cháu ruột gọi cố Hòa Thượng bằng chú, thì khi còn sanh tiền, tánh tình của Ngài rất là đạm bạc, trọn cuộc đời chỉ biết chuyên tâm tu học để cầu giải thoát mà thôi, ngoài ra đối với các việc lợi, danh của thế tình Ngài vô cùng lợt lạt, từ các việc khen chê, phải, quấy, thấp, cao, v.v… Hòa Thượng đều không quan tâm đến (Việc này được hầu hết các bạn đồng tu cùng thời với cố Hòa Thượng và chư tăng, ni, Phật tử thuần thành đều đồng ý xác thực như vậy).
Vì thế cho nên trước kia, một số đệ tử thân cận nhất của cố Hòa Thượng cũng đã nhiều lần thỉnh cầu, xin Ngài cho phép được ghi lại đôi chút tiểu sử để lưu hậu, nhưng Ngài đều cương quyết chối từ. Do vậy mà các chi tiết về cuộc đời, đường đạo của cố Hòa Thượng hầu hết đều bị thất lạc, và đây là một điều rất đáng tiếc vậy.
Riêng cá nhân tôi, dù chưa đủ hạnh duyên để diện kiến và bái yết cùng thọ pháp nơi ngài lần nào nhưng bổn sư của tôi, Đại đức Thích Hải Quang lại là cháu ruột và cũng là đệ tử của Ngài, từ nơi ĐĐ. bổn sư, tôi gián tiếp thọ học giáo pháp của cố Hòa Thượng, cho nên các thiện căn, kiến thức về Phật pháp của tôi mới được dịp phát huy, và tăng trưởng, khả dĩ có thể đảm nhận được các Phật sự theo đúng đường lối của cố Hòa Thượng nơi hải ngoại và riêng chùa Pháp Hoa của vùng sa mạc Tucson, Arizona USA này cho đến ngày hôm nay là cũng nhờ ở nơi cội gốc của Ngài mà ra cả. Vì thế nên tôi gọi cố Hòa Thượng là Sư Ông và tôn kính Ngài lên hàng Sư Tổ là như vậy.
Qua tư cách này và cộng thêm vào đó là tấm lòng quý kính sâu xa của tôi đối với một bậc tôn sư đầy đủ tài đức như cố Hòa Thượng, tôi đã tự xem mình như là một “ký danh đồ tôn” của Ngài, có đôi lúc tôi tự suy nghĩ: phải nên làm thế nào để đền đáp tôn sư ơn đức đây? và tôi kết luận rằng: tôi sẽ phải cố gắng hết sức mình để biên soạn thành một quyển sách nhỏ ghi lại đôi chút về thân thế, đạo nghiệp và sự giải thoát của cố Hòa Thượng để lưu truyền về sau cho các hàng Phật tử xa gần lấy đó làm gương trên con đường tu tập của mình nhất là trong thời buổi mạt pháp và điên đảo nhân tâm này.
Tâm trí tôi thì định như vậy, nhưng rồi lại bị lâm vào cảnh “lực bất tùng tâm”, [Lực bất tùng tâm: tâm trí thì muốn làm mà sức thì không cho phép (tâm mạnh, sức yếu) ý nói muốn làm như thế mà không được] bởi vì tôi không có một chút xíu hiểu gì biết về cố Hòa Thượng hết!
– Vậy phải làm thế nào đây?
Sau vài ba lần suy nghĩ, tôi đánh bạo bày tỏ ý định này lên ĐĐ. bổn sư và xin thầy giúp đỡ phương tiện vì tôi nghĩ rằng thầy là cháu và cố Hòa Thượng lại là chú ruột của thầy. Trong thời gian nhiều năm về trước, khi còn ở bên quê nhà, thầy đã từng làm thị giả, đệ tử thân cận, hầu hạ bên mình của cố Hòa Thượng, thì trong những lúc thanh vắng, rỗi rảnh, chỉ có hai thầy trò, chú cháu nơi tịnh thất, chắc có lẽ không nhiều thì ít Hòa thượng cũng đã có kể lại cho cháu của mình nghe về những kinh nghiệm của bản thân cùng những sự buồn vui, thăng trầm trong cuộc đời tu hành để cho cháu mình thu thập được thêm ít nhiều kiến thức, hầu sau này khỏi bị vấp ngã khi rời khỏi sư môn ra làm Phật sự chớ.
Sau khi nghe tôi trình bày xong về việc này, ĐĐ. bổn sư tỏ vẻ vui mừng lắm, thầy khen tôi là một đồ tôn có lòng hiếu thảo với Sư Ông và hứa sẽ tận tình giúp đỡ để cho tôi hoàn thành ý định.
Cách khoảng hơn một tuần sau thầy có trao cho tôi hai tập tài liệu cực kỳ quý giá về cuộc đời thơ ấu của cố Hòa Thượng.
Tài liệu thứ nhất là quyển “Tây liên tùy bút lục”. Đây là một quyển nhật ký viết trên cuốn vở 100 trang rất cũ của thân phụ thầy: Phật tử Tây Liên Nguyễn Văn Thông và cũng là bào huynh của cố Hòa Thượng (trong đại gia đình thì cố Hòa Thượng đứng hàng thứ 10, còn bào huynh của ngài đứng hàng thứ 5). Quyển nhật ký này ghi chép lại một số sự việc có liên quan đến thời thơ ấu của cố Hòa Thượng, bắt đầu vào ngày 12/5/1932 trở về sau.
Tài liệu thứ hai là quyển: “Nhựt Thăng tu sĩ di cảo” (Nhựt Thăng là thế danh của cố Hòa Thượng). Đây cũng là một quyển nhật ký mỏng chép trên quyển vở 50 trang rất xưa cũ, mở đầu ghi vào ngày 01/9/1935 trong đó là nét chữ của chính tay cố Hòa Thượng viết nên gồm cả chữ quốc ngữ lẫn chữ Nho, ghi lại một vài bài thơ do Ngài sáng tác lúc chưa xuất gia và một số kỷ niệm của thuở ấu thời.
Được hai tập tài liệu quý báu này, tôi “mừng hết lớn”, và tự nhủ thầm rằng đây là do tâm thành của mình chiêu cảm nên được giác linh của Hòa Thượng âm thầm tá trợ đây chăng?
Và tôi quả quyết “chắc là như vậy”.
ĐĐ. bổn sư có nói rằng 2 tập nhật ký này là của Hòa Thượng ban cho để làm kỷ niệm khi thầy tuân lịnh ngài lên đường xuất ngoại 15 năm về trước. Trong gia đình, dòng họ cũng chưa ai thấy được 2 quyển nhật ký này, vì lẽ ở dưới quê ai cũng bận lo làm ruộng rẫy, đầu tắt, mặt tối, dang nắng dầm mưa, cho nên rất ít người để ý đến vấn đề ghi chép lưu bút lắm.
Thầy giữ 2 quyển nhật ký này bên mình không rời dù đi bất cứ nơi đâu, vì đây là kỷ niệm của cha và chú. Nhưng nay thầy thấy đã đến lúc cần phải sử dụng đến nên mới trao ra để cho tôi hoàn thành tâm nguyện.
Mấy tháng kế sau đó, nhân có chút duyên sự về thăm quê nhà, sẵn dịp này tôi có bạch cùng Đại đức bổn sư xin thầy chỉ dẫn thêm vài nơi, vài người mà tôi có thể đến gặp gỡ để tìm thêm vài ba dấu tích về cuộc đời của cố Hòa Thượng hầu cho quyển sách được thêm ít nhiều phong phú hơn. Trong vòng 5 tháng tôi về bên Việt Nam đến 2 lần, mỗi lần đi như vậy là có đến tam, tứ, ngũ, lục tiện … như nào là thăm viếng gia đình, thân thuộc, đi chùa, cúng dường, lễ tháp của cố Hòa Thượng, in kinh ấn tống (Đại Bảo Tích), đúc tượng Phật cho chùa Tucson – Arizona v.v… trong đó có một trách nhiệm quan trọng do thầy bổn sư giao phó là truy tìm thêm chi tiết về thuở ấu thời của cố Hòa Thượng, do đó nên trong thời gian lưu lại bên nhà, tôi đã nhiều lần xuôi ngược lên Đà Lạt, xuống Gò Công, Mỹ Tho, Chợ Gạo, đặc biệt là chùa Vĩnh Tràng ở Mỹ Tho (là ngôi chùa đầu tiên mà cố Hòa Thượng nương ở, tu học thuở thiếu thời), chùa Sắc Tứ (nơi cố Hòa Thượng xuất gia, thọ giới và trụ trì một thời gian ngắn ở nơi đây).
Tôi cũng đã được dịp gặp lại một số quý cụ của 4, 5 thập niên về trước cùng thời với cố Hòa Thượng, phỏng vấn, thu băng và thu hình để làm tài liệu xác thực cho quyển sách, đi riết đến nỗi thân thể ốm gầy, da đen sạm lên vì nắng gió (cho việc này), khi về Mỹ lại ai cũng quở là sao mà tang thương, ốm yếu đến thế!!!
Các tài liệu ấy mặc dù không được hoàn toàn như ý nhưng tôi nghĩ như vậy cũng tạm đủ trong giai đoạn đầu tiên, sau này từ từ sẽ bổ túc thêm, vả lại đã có ĐĐ. bổn sư là cháu ruột của Ngài hứa “yểm trợ”nên tôi cảm thấy mình cũng vững tâm, không đến nỗi nào phải bị lo lắng cho lắm.
Quyển sách này được thành hình và đến tay quý vị hôm nay, như trên vừa bày tỏ, chỉ là để xiển dương lại cái “đại đức” của một bậc cao tăng đạo hạnh, suốt đời lo chơn thật tu hành, nhất tâm cần cầu giải thoát chớ không màng chi đến thế tục lợi danh. Sống không xa hoa, phù phiếm, mà trọn đời chỉ ưa an ẩn nơi chốn lan nhã, núi rừng, giữ đời đạm bạc, sống lo cho đạo, chết về giải thoát, đối với mọi duyên đời chẳng hề khởi niệm luyến lưu.
Và đây mới là quả thật là chơn Phật tử vậy.
Tôi cũng nguyện cho mọi hữu duyên nhơn sau khi xem xong được cốt chuyện xác thực, hiện đại trong quyển sách này rồi, lấy đó mà làm gương cho mình và phát ý tu hành tinh tấn thêm lên như cố Hòa Thượng vậy để hái lấy quả mầu vô sanh nơi Phật quốc. Ngoài ra chớ nên chấp thủ theo lối thường tình, bởi một duyên đời đều như mộng huyễn nào có bền lâu. Lòng nguyện của tôi (nơi quyển sách này) chỉ như thế mà thôi, tuyệt nhiên không còn có thêm vào bất cứ ý niệm chi sai khác như thủ lợi, cầu danh… bởi vì đây chỉ là một quyển sách nhỏ, ấn tống, được viết lên với tất cả tấm lòng thành.
Đương nhiên trong đây còn có rất nhiều thiếu sót, bởi vì cố Hòa Thượng đã tự xóa hết tất cả các phần lý lịch của mình không để lưu hậu. Vì thế nên không một ai trên cõi đời này, kể luôn các thân nhân ruột thịt của Ngài biết được chính xác về cuộc đời của vị “phi tích cao Tăng” [Phi tích cao tăng: là vị cao tăng có những kỳ tích phi thường, đặc biệt, khác hẳn với các vị tăng thông thường khác nơi trường thế tục lợi danh] này được cả. Một con người mà sống không chút tham luyến, chết chẳng chút sầu não như các dòng thơ cuối cùng của Ngài lưu lại:
Đời ta chí gởi chốn liên trì,
Trần thế vinh hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm
Mừng nay được thấy đức A DI.
Thích Thiền Tâm
(Những dòng thơ cuối)
Kính bạch Hòa thượng Giác Linh,
Con cũng biết việc làm này có thể đã trái với bổn ý của Ngài là không muốn lưu lại những cái “ta” và cái “của ta” (ngã và ngã sở) của cá nhân mình (dù là cao đẹp) lại cho đời phê phán, khen chê, nhưng xin Ngài chứng giám cho tấm lòng chơn thành của con: một đứa đồ tôn xa xôi, khiếm diện – về những gì mà con viết lên đây, trong quyển sách nhỏ này, con xin dưng cúng dường lên Giác linh Hòa thượng. Nếu như (trong đây) con có gây tạo nên ít nhiều sơ sót, sai lầm chi, ngưỡng mong ngài từ bi miễn thứ.
Con xin cúi đầu khấn nguyện:
– Hòa thượng Giác linh, hằng trụ Tây phương, bất ly uế độ, sắc không liễu ngộ, hóa độ quần sanh. Nhứt niệm liễu thông, chứng minh hiến cúng.
– Nam mô Phương liên cập Hương nghiêm đường thượng, thượng THIỀN hạ TÂM đại lão Hòa thượng giác linh.
Tác đại chứng minh.
(Đồng kính bái).
Viết xong vào cuối mùa thu, Năm Quý Dậu
1993 Tại Chùa PHÁP HOA
Tucson, Arizona – USA
Phật tử BẢO ĐĂNG
Bái bạch
I- PHẦN DẪN NHẬP
Khải đề:
Non xanh lặng lẽ tợ ngui than,
Kiếp tạm phù du, chớp điện quang
Người theo nhau mất, non còn đó,
Kết cuộc Nam Kha, giấc mộng vàng!
Thơ Liên Du
(Thích Thiền Tâm)
Bài thơ trong phần dẫn nhập trên đây của Cố Hòa thượng đã gợi ý cho chúng ta nên thức tỉnh trước mọi duyên đời vô thường, mong manh, và giả tạm.
Kiếp người qua mau nào có lâu bền, trăm năm mới nghe qua thì tựa như rất lâu dài, nhưng các bậc trí giả, liễu ngộ xem nó dường như thoáng kiếp phù du (1) [Kiếp phù du: kiếp sống ngắn ngủi (phù du là một sinh vật nhỏ sống nơi sông biển, từ khi sanh đến lúc chết chưa đầy một phút đồng hồ]hay như ánh chớp giữa trời mà thôi. Ấy thế mà trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, nhơn sanh vì cái sắc thân hư dối này mà gây tạo ra không biết bao nhiêu là nghiệp duyên, nhân quả sai lầm, đến nỗi tự mình phụ phàng lấy mình mà chôn vùi đi cái chơn tánh tinh minh, tịch mịch.
Trong kinh Hoa Nghiêm Phật dạy:“Giả sử như nghiệp duyên mà có hình tướng thì mười phương hư không cũng chẳng thể nào dung chứa cho hết”
Và nếu cứ mãi như thế, thì đến ngày 30 tháng chạp của cuộc đời rồi, tất nhiên sẽ theo các nghiệp ấy mà đi trong ba cõi, sáu đường [Ba cõi, sáu đường: Ba cõi là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Sáu đường là trời, thần, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh] mịt mịt mù mù, chịu biết bao nỗi đớn đau thảm sầu, thương xót!
Người dương thế, hễ trai gái lớn lên, thì kẻ mong có vợ, người tưởng lấy chồng, trông sao cho sớm được cái cảnh “loan phượng hòa minh, sắc cầm hảo hiệp”, con cháu quý xinh, cửa rộng nhà cao, bạc tiền dư dả, nhung gấm lụa là, xuống ngựa lên xe … ngàn muôn ước vọng cao sang trước sau như thế, nhưng mấy ai nghĩ đến tất cả duyên đời tuồng như mộng ảo mà quay đầu, hồi tâm thức tỉnh nơi bước đường tu.
Có thơ rằng:
Hoàng lương mộng,(*)
Mộng hoàng lương.
Một giấc hoàng lương mộng đẹp dường,
Áo tím, đai vàng, mờ bóng cũ.
Mồ xanh, cỏ ấy bạc màu sương!
Từ đây tĩnh,
Chớ lo lường.
Phú quý công danh cũng mộng trường!
Thơ Liên Du
(Thích Thiền Tâm)
[(*) Hoàng lương mộng: là giấc mộng kê vàng.
Sơ lược điển tích: có một thư sinh đi thi không đậu, trên đường về nhà, ghé qua một quán nhỏ bên đường tìm thức ăn đỡ dạ. Chủ quán lấy hoàng lương (là bắp hột vàng) để nấu cho ăn. Trong khi chờ đợi thì thư sinh nằm ngủ quên đi, trong mơ thấy mình thi đậu, được vua gả công chúa làm vợ, kế đến làm quan to đến cực phẩm, vinh hiển hơn 30 năm trời, sau thấy trận, bị vua cách chức cho về hưu. Vợ chồng buồn rầu than khóc, giật mình thức dậy mới biết là chiêm bao, cảm ngộ cảnh đời vô thường, ngó lại thì nồi bắp nấu vẫn còn chưa chín, thư sinh sực tỉnh cất tiếng cười khan, bỏ vào núi sâu tu luyện, không thấy trở ra nữa.]
Từ ngàn xưa đến nay, há chẳng thấy thế hệ này nối tiếp qua thế hệ kia, kẻ này tiếp theo người khác lìa bỏ cõi đời, chôn lấp tứ đại sắc thân nơi gò hoang, huyệt lạnh ư! Ôi, non xanh vẫn còn kia làm chứng nhân cho biết bao thế hệ, lặng lẽ như than thở, khóc thầm trước bao điều tử biệt, sanh ly.
Hỡi người nhân thế có thấy hay chăng?
Tranh danh, đoạt lợi, rộn ràng, lăng xăng cho thế mấy đi nữa, chừng hồi tỉnh lại thì nào còn có chi đâu! Rõ ràng nhất là từ năm Ất Mão 1975 đến nay, trước mắt ta đã thấy xảy ra không biết bao nhiêu là tang thương, đổ nát, suy biến đổi đời.
Có thơ rằng:
Lửa cháy tàn tro bụi
Xoay vần lẽ tự nhiên.
Nhìn tang thương đổ nát,
Xương trắng lụy tròng nghiêng.
(Cổ thi)
Bậc trí giả quán sát các duyên đời như thế, lòng sao tránh khỏi buông ra một tiếng than dài!
Cho nên người hiểu đạo cùng các bậc thức lượng sâu xa cảm ngộ các cảnh duyên đời đổi thay dâu bể, tự nhiên thấy lòng nguội lạnh chẳng còn chi chút luyến lưu, ngoảnh mặt, xây lưng xả bỏ cảnh trần, cắt tóc ly gia, lìa thân xả ái, trọn đời an phận đạm bạc nơi chốn thiền môn, sớm kệ chiều kinh, một dạ tu hành không nài gian khổ, nguyện thân này, kiếp này là thân chót, kiếp chót nơi cõi tạm trần lao, mong sao cho ngày cuối của cuộc đời tới nơi rồi, theo Phật về Tây, biệt đường sanh tử.
Và đó mới xác thật là phong cách của bậc trượng phu đại nhơn vậy.
Đến đây tôi muốn dẫn nhập vào và đề cập đến một người tăng sĩ, một vị danh đức cao tăng, một ngôi sao bắc đẩu trên vòm trời Phật giáo Việt Nam mới vừa lịm tắt về hướng trời Tây của miền An Dưỡng, để lại cho đời muôn tiếc, ngàn thương:
Đó là:
Cố Hòa thượng Đại Ninh.
VÔ NHẤT ĐẠI SƯ
THÍCH THIỀN TÂM
Viện chủ Hương Nghiêm tịnh viện (Tu viện Vĩnh Minh). Pháp chủ Phương Liên tịnh xứ Mật Tịnh đạo tràng. Viên tịch ngày 21/11 Âl năm Nhâm Thân (14/12 dl 1992)
Hưởng thọ 68 tuổi đời và 48 tuổi đạo.
Ngài chính là người mà ngay từ trong lứa tuổi ấu thơ đã sớm ngộ cảnh thế vô thường, duyên đời hư giả nên chẳng những đã không bao giờ xây đắp cho mình giấc mộng Hoàng lương như bao chàng thanh thiếu niên khác mà trái lại, đã sớm xả bỏ tục trần, cắt ái từ thân, chân chánh tu hành, giữ tròn đạo hạnh … nêu tấm gương sáng cho các hàng tứ chúng trong hiện tại và lẫn cả về sau quy ngưỡng.
Để cho quý hữu hiểu biết thêm một ít phần về cuộc đời của vị cao tăng này, trong các tiết mục kế tiếp đây, Bảo Đăng tôi sẽ lần lượt giới thiệu lên một vài khoảng đời của Ngài, từ thuở ấu niên cho đến lúc trưởng thành, xuất gia tu hành và đạt được đạo mầu giải thoát.
II- THÂN THẾ VÀ THUỞ ẤU THỜI
A. THÂN THẾ:
Cố Hòa thượng sanh quán tại làng Bình Xuân, quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công (nay đổi lại là tỉnh Tiền Giang) thuộc miền Đông Nam bộ.
Sanh trưởng trong một gia đình Nho giáo có khuynh hướng sùng bái đạo Phật. Thân phụ của ngài là cụ ông Nguyễn Văn Hương, một bậc túc nho, có học vấn và là một nông dân có tánh chơn chất, thật thà của người nơi miền ruộng nương rẫy báy. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Giác Ân Trần Thị Dung, một người nội trợ, đảm đang, hiền đức nổi tiếng trong làng.
Cả gia đình của Ngài đều được mọi người trong vùng quý trọng, thường gọi là ông bà “Sáu Hương”. Trong dòng con của gia đình theo thứ tự các huynh đệ, tỷ muội, thì Ngài đứng vào hàng thứ 10 (trong số 13 người con của dòng họ).
Theo lời cụ bà Giác Ân, thân mẫu của Ngài kể lại, thì trong một đêm đó, bà đang ngủ mơ màng, chợt thấy ngoài sân có ánh sáng chói rực, vía bà tưởng chắc có lẽ Tây (người Pháp) thả trái sáng ở gần nhà, (vì các khoảng thời gian đó là những năm loạn lạc đánh nhau giữa Tây và Việt Minh) bà e rằng trái sáng rớt xuống sẽ làm cho nhà bị cháy (vì ở miền quê mái nhà lợp bằng lá dừa nước), nên lật đật dậy chạy ra ngoài xem chừng, thì không thấy có lính tráng hay chuyện gì khác hết. Trong khi bà còn đang ngạc nhiên ngó qua lại để tìm kiếm thì bỗng nghe có tiếng gọi rằng:
– Người nữ kia đến đây ta bảo.
Giọng nói rất oai nghiêm vang ra từ phía trên đầu làm cho bà giật mình ngước mắt nhìn lên thì thấy giữa không trung có một lão bà đang từ từ giáng hạ xuống đất, chính cái ánh sáng mà bà tưởng là do trái châu của Tây bắn ra lúc nãy là từ ở nơi thân mình của bà lão này phát ra.
Cụ bà nghĩ đây chắc là tiên, hay Phật gì giáng hạ nên lật đật quỳ xuống lạy dài. Bà lão khen tốt bảo đứng dậy đoạn kêu bà tới gần và trao cho một hài nhi khoảng chừng 3, 4 tháng mà nói rằng:
– Ngươi hãy nhận lấy và nuôi dưỡng đứa bé này cho ta.
Cụ bà ngần ngại không muốn lãnh vì cụ đã trải qua nhiều lần sanh nở, dưỡng nuôi, sự đau đớn và cực khổ đã làm cho bà ngán ngẩm nên chần chờ, do dự sự quyết định.
Bà lão trợn mắt, ra oai mà bảo:
– Đây là La Hầu La quý tử chẳng phải người thường, bởi ta thấy ngươi là một người hiền đức nên mới trao cho, sao dám từ chối. Hãy nhận lấy mà nuôi dưỡng, sau này sẽ được nhờ nó độ thoát cho về với Phật.
Phần thấy bà lão trợn mắt, ra oai, lớn giọng, phần nghe nói quý tử nên cụ bà cũng ham, đưa tay bồng lấy đứa bé, thấy nó trắng trẻo, dễ thương nên bà cũng vừa ý đẹp lòng. Vừa bồng hài nhi vào tay xong thì bà lão thăng bổng lên cao đi mất, ánh sáng kia cũng theo bà lão mà tắt đi luôn.
Cụ bà giật mình thức dậy thì ra chỉ là một giấc chiêm bao, trong lòng lấy làm lạ lắm, sáng ra cụ mới kể lại cho chồng nghe giấc mộng hồi khuya.
Cụ Ông bảo:
– Chắc có lẽ trời Phật sẽ cho mình sanh con “quý tử” không chừng.
Kể từ đó bà mang thai và điều đặc biệt là kể từ khi cấn thai đứa con này, cụ bà không chịu được mùi thịt cá, nên ăn chay trường. Ở miền quê thì việc chay lạt rất là đạm bạc chớ không cầu kỳ như ở thành phố nên thức ăn chỉ có toàn là rau luộc, tương chao thôi, ấy vậy mà bà vẫn khỏe mạnh, khác hẳn với mấy lúc trước kia đau ốm rề rề.
Trong xã Bình Xuân có một ngôi chùa làng xưa nho nhỏ, không sư trụ trì, chỉ có một ông từ già giữ chùa thắp nhang, tụng kinh, ông có gia đình bên ngoài nên chùa ít khi mở cửa, chỉ trừ vào các ngày 14, rằm, 30, mồng một mới đến chùa tụng niệm mà thôi. Vì thế nên chùa thường bị lâm vào cảnh nhang tàn, khói lạnh.
Cụ bà thấy vậy nên mỗi ngày dành ít thời giờ đến chùa quét dọn, đốt nhang, dộng chuông. Việc này từ trước đến nay cụ chưa bao giờ biết hay phát tâm làm cả, thế mà kể từ khi có mang đứa con này, đối với các việc chùa chiền, công quả cụ bà lại hăng hái và siêng năng hơn bao giờ hết.
Âu cũng là do thiện căn, phúc đức của đứa con mà bà đang mang trong người chiêu cảm ra vậy.
Cụ ông là một bậc thâm Nho, có đọc nhiều sách vở xưa (viết bằng chữ Hán) vì thế nên cụ biết rằng đứa con tương lai của mình chắc sẽ có một cái gì đó đặc biệt hơn các anh chị của nó, cho nên việc mà cụ bà phát tâm làm công quả, đi chùa, lạy Phật, chẳng những cụ ông không ngăn cản chút nào, trái lại cụ còn khuyến khích thêm nữa.
Ngày cụ bà khai hoa, lúc đó vào khoảng rạng đông, bỗng dưng có một cơn mưa nhỏ, hài nhi chào đời nhẹ nhàng chớ không có làm cho cụ đau đớn nhiều như những người con trước.
Cụ ông chiếu theo ngày giờ và vài ba triệu chứng khi sanh ấu nhi ra, tra cứu trong sách toán mệnh học chữ nho xong rồi bảo cụ bà rằng:
– Đứa con này nguyên nó là căn tiên, cốt Phật đầu thai, chớ không phải là con thường như mấy đứa trước đâu. Có điều nó tuổi Ất Sửu mà sanh ra vào buổi rạng đông tức là nhằm lúc con trâu sắp sửa ra đồng cày ruộng, nên lỗi giờ sanh e sau này nó sẽ tha hương khổ cực, nhưng bù lại khi mới sanh có một đám mưa nhỏ, sách nói về sau, khi lớn lên nó không bị nhiễm vào trong đường tình ái, vợ chồng, và nếu như đi tu ắt sẽ được đắc thành chánh quả.
Ví có các sự việc như vậy nên cả hai cụ đều đặc biệt để ý và rất yêu quý đứa con này.
B. THUỞ ẤU THỜI:
Ngài được cha mẹ đặt cho tên là Nguyễn Nhựt Thăng (khác với các anh em được lót chữ văn ở giữa, như người con trai thứ ba thì tên Nguyễn Văn La, thứ năm tên Nguyễn Văn Thông, út tên Nguyễn Văn Thắng) có nghĩa là mỗi ngày càng thêm thăng tiến. (Nhựt là ngày – Thăng là thăng tiến).
Đó là ý của song thân muốn cho Ngài sau này càng ngày càng thêm được thăng hoa, tiến đạt nên mới ban cho đứa con đặc biệt này một cái tên có nhiều ý nghĩa hay ho như vậy.
Mà quả đúng như thế, bé trai này càng ngày (đương nhiên là càng lớn lên) rồi mà tánh tình cũng khác lạ hơn các anh chị em trong nhà nữa. Trong những năm đầu tiên khoảng từ 1 tuổi đến 5 tuổi bé không ưa chạy giỡn, chơi đùa như những đứa trẻ cùng trang lứa khác, mà thường hay ở trong nhà, ra trước bàn thờ đốt nhang, bái xá và theo thân phụ học tập chữ Nho.
(Thời gian của thập niên 1920-1930 này, chữ quốc ngữ chưa được thông dụng như bây giờ nên đa số dân chúng đều học, viết và đọc sách vở, tất cả gần như đều bằng chữ Nho hết. Đến khi vào lớp đầu tiên ở trường làng thầy giáo cũng dạy vỡ lòng cho bằng chữ Nho, và ở vào thời buổi này thì hầu hết bài vở của học sinh nơi các chốn học đường gần như được dạy toàn bằng chữ Hán trích ra từ trong các sách giáo khoa Hán học cả. Vì thế cho nên phần lớn các bậc phụ lão, trưởng bối của thế hệ này còn sót lại đến ngày nay, ít nhiều đều biết đọc và viết chữ Nho hết).
Riêng về cố Hòa thượng thì kể từ khi bắt đầu cắp sách đến trường là đã được dạy chữ Nho một cách cẩn thận và đúng phương pháp từ nơi thân phụ (cũng như ở học đường), vì vậy mà căn bản chữ Hán của ngài rất vững chắc và mau chóng tiến bộ hơn so với các bạn đồng học khác cùng trang lứa.
Ngài rất mực thông minh, lại thêm chăm chỉ và hiếu học cho nên có thể nói là ngài học một mà biết hai và hầu như luôn luôn được điểm hạng đứng đầu lớp trong suốt các thời gian dùi mài kinh sử.
Đến năm lên chín tuổi, thì trình độ chữ Nho văn của ngài đã giỏi, có thể đọc lưu loát được các sách Hán học và viết (chữ Nho) một cách thành thục, thông thạo, tựa như một người đã từng có học, viết qua Hán tự mười mấy năm trường.
Ở miền ruộng rẫy thì đương nhiên là các sách vở giáo khoa bằng chữ Nho không được mấy đầy đủ như chốn thị thành, nhưng cũng may nhờ thân phụ của ngài là một Nho gia, cho nên trong nhà cũng có trữ được vài ba bộ sách Nho học quý giá như là Tứ Thơ, Ngũ Kinh, cùng với năm bảy bộ sách Hán học khác như các bộ truyện Tàu, chuyện xưa, tích cũ của Trung Hoa v.v… chẳng hạn. Nhờ vậy mà sự hiểu biết của ngài rất rộng rãi không kém chi những người có học thức cao ở nơi phố chợ.
Song song với việc học chữ Hán, ngài còn lại phải học thêm chữ Tây và Quốc ngữ, vì thời gian này vẫn còn bị người Pháp cai trị nên việc biết chữ Tây là một điều bắt buộc và cần thiết – còn chữ Quốc ngữ là tiếng mẹ đẻ của mình cho nên phải học nó là lẽ đương nhiên. Vả lại thời gian của những thập niên này thì phong trào học, đọc, viết chữ Quốc ngữ đang được các nhà làm văn hóa Việt Nam phát khởi một cách rầm rộ để chuẩn bị thay thế cho chữ Nho của Tàu và chữ Tây của Pháp vốn đã có một ảnh hưởng sâu rộng từ lâu trong văn hóa nước nhà.
Vào thời kỳ này, khắp nơi gần như ai cũng biết và thuộc lòng các phương thức vận động học chữ quốc như như:
– “Người Việt phải nên học chữ Việt”.
Hoặc là:
– “Tiếng Quốc ngữ, chữ nước ta,
Văn hóa nhà, cần phải học”
vân vân… Do đó nên Ngài vừa giỏi chữ Nho, chữ Quốc ngữ và luôn cả chữ Pháp nữa. Nhưng cũng bởi vì gia đình sống ở miền quê, sách vở về tân học không được mấy đầy đủ, cho nên phần lớn quãng đời thơ ấu và các kiến văn của ngài có khuynh hướng nghiêng về bên phía Nho học nhiều hơn.
Các bộ môn Nho văn của cụ ông trước sau đều đã được ngài đọc và nghiền ngẫm thường xuyên, nằm lòng như cháo, cho nên mặc dù tuổi đời còn nhỏ mà ngài đã sớm ngộ được nhiều điều đạo lý của Khổng giáo rồi và cũng vì vậy mà ngài có cái phong cách của một ông “Đồ nho con” đạo mạo, lễ giáo chớ không giống như các trẻ con cùng trang lứa khác trong làng – và ngay cả đến các anh chị em ruột của ngài trong gia đình nữa.
Tánh hạnh của ngài cũng khác thường, ít ưa nói năng cười đùa hay hài hước, tạp nhạp, quá lố.
Những khi rỗi rảnh thay vì đùa giỡn hay bắn bi, đánh đáo… là các trò chơi ưa thích của trẻ con, nhưng ngài lại thường ở nhà, đem sách Nho ra đọc và giảng giải cho thân mẫu nghe tựa như một ông thầy đồ đứng tuổi đang giảng sách vậy. Cho nên thân mẫu của ngài vừa thương vừa quý trọng ngài hơn các người con khác.
Trong số 13 anh chị em của gia đình gồm 4 trai 9 gái thì ngài thường thân cận và gần gũi với người anh thứ năm (tức là cố thân phụ của ĐĐ. Thích Hải Quang hiện giờ) nhiều nhất. Giữa hai huynh đệ này có một sự cảm thông và gắn bó với nhau một cách đặc biệt hơn các anh chị em khác, nên có thể nói rằng hai người vừa là anh em và cũng vừa là đôi bạn tâm giao thân thiết nữa.
Suốt thời gian thơ ấu khắn khít sống bên nhau, hai anh em đã cùng chia sẻ các kiến thức về văn học và các tâm sự vui buồn, mãi cho đến sau này khi lớn lên trong lứa tuổi trưởng thành rồi mới cùng nhau giã biệt, kẻ theo đường đời, người nương lối đạo, (anh năm của ngài lập gia đình vào năm 1940, còn ngài thì bắt đầu vào chùa khoảng giữa năm 1938).
Và cũng chính nhờ vào cái nhân duyên đặc biệt đó khiến xui (như thế) cho nên một số các kỹ niệm về thuở ấu thời của cố Hòa thượng được người anh thứ năm này ghi lại trong cuốn nhật ký của người mang tên là:
“TÂY LIÊN tùy bút lục”
Mà Bảo Đăng tôi căn cứ vào đây để làm tài liệu tham chiếu chánh khi viết lại các quãng đời thơ ấu của Ngài nơi quyển sách nhỏ này.
Riêng về cá nhân của cố Hòa thượng, chắc có lẽ nhờ thiện căn tu hành trong quá khứ dẫn lối đưa đường, cho nên mặc dù tuổi đời còn nhỏ mà Ngài lại rất ưa thích nghiên cứu về bộ môn đạo học hơn là các bộ môn khác (một cách đặc biệt). Ngoài các bộ sách Nho học của thân phụ ra, Ngài vẫn thường xuyên đến ngôi chùa xưa trong làng để đọc cùng mượn các Kinh sách Phật giáo về xem và so sánh với các tôn giáo khác, như đạo Nho và đạo Lão, vì vậy mà sau này càng ngày càng lớn lên, kiến văn về đạo học của Ngài rất là uyên bác bao gồm luôn cả Nho – Thích – Đạo (tức là Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo (tiên)).
Trong quyển “Tây Liên tùy bút lục” của anh năm của Ngài để lại, có ghi một câu chuyện ngắn rất lạ lùng, phi thường và ký bí như sau:
– Vào năm 1932 tức là năm cố Hòa thượng được bảy tuổi, nhân mục kích sự tử vong (chết) của một người thanh niên chòm xóm, thông thấu cảnh khóc than, sầu khổ của gia đình người chết cùng với các việc khác như là khiêng quan tài ra ngoài đồng chôn cất v.v… Ngài có vẻ suy tư và bồn chồn lo lắng lắm.
Một hôm Ngài hỏi cụ ông rằng:
– Thưa cậu, có phải rồi ai cũng sẽ chết hết chăng? (Ở trong miền Nam, có vài ba địa phương con cái gọi cha bằng cậu, bằng ba hoặc bằng tía – gọi mẹ bằng mợ, bằng má… đó là chuyện thường).
Lấy làm lạ khi thấy con mình mới có bảy, tám tuổi mà biết hỏi chuyện người lớn như vậy, nhưng thân phụ của ngài cũng vẫn đáp:
– Phải, mọi người ai rồi cũng sẽ phải chết hết. Hoặc chết trẻ, chết già, hoặc chết sớm, chết muộn mà thôi. Như thằng sáu Các mà con thấy đám ma đó, nó chết rất trẻ vì mới có 16 tuổi đầu!
Ngài hỏi tiếp:
– Như vậy thì có cách nào làm cho khỏi bị chết hay không?
Thân phụ Ngài đáp:
– Không có cách nào hết, đời vô thường mà, như con với cậu đây có ngày rồi cũng phải chết như những người đi trước mà thôi.
Khi nghe thân phụ trả lời như thế thì ngài làm thinh nhưng mà trên gương mặt của người ấu nhi này đã thấy đượm lên một vẻ buồn lo, suy nghĩ. Đâu có ai biết được trong lòng của cậu bé mới lên 7 tuổi này đang lo nghĩ điều chi?
Từ đó trở đi, gia đình thường thấy Ngài trầm lặng và có vẻ suy tư nhiều hơn dạo trước. Đối với các sinh hoạt thường ngày trong gia đình và giữa các anh chị em với nhau, ngài cũng ít còn hăng hái tham dự vào như những thường nhật đã qua.
Vào một ngày khác, Ngài cũng đem câu hỏi trên mà hỏi nơi thân mẫu của mình.
Cụ bà đáp rằng:
– Xưa nay đâu có người nào khỏi chết bao giờ!
Ngài hỏi:
– Vậy thì làm sao mà được khỏi chết?
Cũng như cụ ông, cụ bà rất lấy làm lạ lùng trước câu hỏi có vẻ người lớn của con mình. Tuy nhiên cụ bà cũng vẫn đáp rằng:
Má đâu có biết được, nếu như mầy muốn khỏi chết thì mầy nên NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT thì may mới khỏi mà thôi.
(Đây là cụ bà trả lời chiếu lệ, lấy có để qua vấn đề cho rồi, chớ cụ đâu có bao giờ ngờ rằng câu trả lời của cụ sẽ trở thành bất tử (nơi quyển sách này) trong tương lai, và hiện tại là gieo vào nơi tâm thức của con mình một sự phấn khởi, hy vọng, cùng với một niềm tin tưởng vững chắc hơn về phương cách giải quyết việc sanh tử trong suốt cả cuộc đời của nó).
Ngài nghe thân mẫu mình dạy như thế thời mừng vui lắm, bởi vì từ bây giờ trở đi, Ngài đã biết làm cách nào để khỏi bị chết rồi. Cho nên bắt đầu từ dạo đó, mỗi ngày khi đi đâu, làm gì và chí đến những lúc đi, đứng, nằm, ngồi, người ấu nhi 7 tuổi mà đã có một đức TIN kiên quyết này lúc nào cũng lâm râm trì niệm câu:
“NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT, cho con khỏi chết”.
Cậu bé cứ niệm mãi và niệm mãi … như thế với lòng tin tưởng tuyệt đối là mình sẽ không bao giờ bị chết như những người khác hết!
Và cứ như thế, thời gian tuần tự trôi qua … cho đến hai năm sau, lúc đó ngài đã được 9 tuổi, thì có một điều phi thường, lạ lùng xuất hiện:
Sự việc ấy như sau:
Trong một đêm khuya vắng nọ, lúc đó cả nhà đều yên giấc hết, chỉ có một mình cậu bé Nguyễn Nhựt Thăng mới lên 9 tuổi này là còn đang thao thức. Và như thường lệ mỗi đêm của suốt hai năm qua, cậu nằm im trên bộ ván gõ kê gần cửa sổ ở bên hông nhà trên – (gọi là nhà trên vì còn có nhà dưới nữa, thông thường ở miền quê trong Nam thì người ta dùng nhà trên làm phòng ngủ, phòng khách – nhà dưới thì làm nhà chứa lúa, nhà bếp, nhà ăn v.v…) – miệng lâm râm đọc câu:
“NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT, cho con khỏi chết”.
“NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT, cho con khỏi chết”.
Trước khi thiếp đi vào trong giấc ngủ êm ấm của mỗi đêm dài. Bỗng nhiên cậu thấy ngoài sân, qua khung cửa sổ phát ra ánh sáng chói lòa, rực rỡ như ban ngày.
Lấy làm lạ, Nhựt Thăng đồng tử vội lồm cồm ngồi dậy và đi đến bên cửa sổ đứng nhìn ra tìm duyên cớ, thì cậu thấy bên ngoài, giữa không trung từ phía trên trời, có bốn người cao lớn, dung mạo hơi khác thường, chung quanh mình họ có ánh sáng phát ra như trái châu lửa.
Bốn người này khiêng bốn góc của một cái kiệu xưa rất đẹp đang từ từ giáng hạ xuống phía trước sân nhà. Ánh sáng chói lòa, rực rỡ mà cậu thấy ban nãy chính là ánh sáng từ nơi thân của bốn người này phát ra vậy.
Trong khi cậu còn đang ngạc nhiên, sửng sốt và ngây người ra nhìn thì thấy bốn vị này để cái kiệu ở ngoài sân, bay xuyên qua cửa sổ đáp xuống bên cậu làm cho cậu giựt mình, thối lui ra sau, trong lòng có ý lo sợ, thì một vị nói:
– Nhỏ kia, chớ có sợ. Chúng ta là người ở trên trời, hôm nay vì ngươi mà xuống đây. Bởi vì đã hai năm qua rồi, ngày nào ngươi cũng NIỆM TRỜI cầu cho khỏi chết, nên cảm động đến bề trên sai chúng ta xuống đây rước ngươi về trời để cho ngươi được trường sanh bất lão.
Vậy xin hãy yên tâm và theo chúng ta lên kiệu mà đi cho kịp thời giờ.
Ngài nghe nói vậy thì trong lòng mừng lắm, liền bước chân theo bốn vị “thiên nhơn” kia ra sân.
Lúc bốn vị ấy đưa tay ra định tiếp Ngài lên kiệu, bỗng nhiên Ngài sực nhớ lại là mình chưa chào giã biệt cha mẹ và anh năm, nên Ngài mới nói cùng với bốn vị “thiên nhơn” kia rằng:
– Khoan đã, hãy chờ một chút vì tôi còn phải vào nhà tự biệt phụ mẫu cùng với huynh trưởng rồi mới đi theo quý vị lên trời được.
(Vì huynh trưởng là người anh thứ ba lúc đó đi theo kháng chiến xa nhà, nên người anh thứ năm lên làm quyền anh cả).
Nói xong ngài quay người lại định bước vào nhà từ giã cha mẹ, bỗng nhiên nghe bên tai có mấy tiếng chuông “boong boong” ngân lên tất thanh kèm theo mấy câu “NIỆM PHẬT – NIỆM PHẬT”, âm hưởng của giọng niệm Phật này cực kỳ thanh tao và êm dịu làm cho trong tâm Ngài cảm thấy tự nhiên dâng lên một sự ấm áp và khỏe khoắn lạ thường.
Vì bình nhật ngài chuyên trì một câu niệm, mà trong đó có 2 chữ NIỆM PHẬT đã nhập tâm rồi, nên bây giờ khi nghe tiếng NIỆM PHẬT tuyệt vời kia khiến cho lòng Ngài bỗng dưng cảm động, vội vàng cất tiếng niệm Phật hòa theo và quay đầu ngó khắp các nơi tìm kiếm. Thì ngài thấy từ nơi hướng mặt trời lặn (phương Tây) phía trên không trung có một vị đại tăng vóc người cao lớn, mình mặc áo vàng, tay cầm chuỗi hột, dung mạo và thần thái cực kỳ thanh nhã, đang nhìn ngài mỉm cười và từ từ giáng hạ xuống đất, chung quanh mình của vị đại sư này, có một thứ ánh sáng màu vàng tỏa ra vô cùng tươi đẹp.
Lúc ấy Ngài bỗng cảm thấy thân tâm mình được cực kỳ an lạc, một sự an lạc phi thường, tuyệt diệu không sao tả xiết. Thoạt tiên, khi mới nhìn thấy vị đại sư đó, ngài có cảm tưởng là hình như mình đã được gặp một vài lần ở đâu rồi và Ngài sực nhớ ra liền là mấy lúc trước đây khi theo thân mẫu đến chùa lạy Phật, thì ông Phật trên bàn thờ mà mình cùng với mẹ quỳ lạy đó chính là vị đại sư này chớ không phải ai khác hết.
Ngài mừng lắm, liền bỏ bốn vị “thiên nhơn” kia, chạy đến bên “PHẬT HÒA THƯỢNG” quỳ lạy và ôm lấy chân Ngài.
PHẬT Hòa Thượng lấy tay vuốt đầu ngài và cất giọng thanh tao nói rằng:
– Này con, nay con nên niệm PHẬT, đừng nên niệm TRỜI nữa vì NIỆM PHẬT mới sống hoài, chớ NIỆM TRỜI thì còn có ngày phải chết.
Ngài nghe Phật Hòa Thượng bảo vậy, liền cất to giọng xướng câu: NIỆM PHẬT – NIỆM PHẬT – NIỆM PHẬT.
Phật hòa thượng lấy tay bồng ngài lên, nhìn vào mặt ngài và tươi cười nói:
– Con rất ngoan ngoãn, biết nghe theo lời dạy của ta.
Đoạn đặt ngài xuống, kế đó hòa thượng lấy trong mình của NGÀI ra một con dấu (ấn) màu vàng chói rực, vuông góc bốn cạnh, in lên trán ngài một ẤN rồi nói:
– Nay ta đóng cái “PHẬT ẤN” này lên trán của con để làm tín chứng và thâu nhận con vào làm con ruột của ta. Với cái dấu ấn này đây, ngay sau khi con về nhà ta sẽ không có một ai dám ngăn cản cả.
Vậy con hãy luôn nhớ câu “NIỆM PHẬT, NIỆM PHẬT, NIỆM PHẬT” đừng quên. Ta chờ con đó.
Nói xong PHẬT Hòa Thượng dùng tay xoa đầu ngài niệm một lần nữa, kế đến nghe có tiếng chuông rất thanh ngân lên và NGÀI từ từ thăng lên không hướng về phía trời Tây bay mất.
Ngài cúi mọp đầu xuống đất, quỳ lạy tiễn đưa.
Trong khi ngài còn đang bàng hoàng nuối tiếc, đứng ngẩn người ra nhìn theo hướng bay của PHẬT Hòa Thượng, chợt nghe có tiếng nói xì xào vang lên ở phía sau mình nên vội vã quay người ngó lại, thì thấy bốn vị “thiên nhơn” kia đứng ở đàng xa, đang dụm đầu vào nhau bàn tán, một lát sau cả bốn người chạy đến và ngó vào mặt ngài một cách chăm chú.
Có một vị “thiên nhơn” nói rằng:
– Nay trên trán của đồng tử này đã có dấu “PHẬT ẤN” đóng vào rồi thì nó là con của PHẬT, chúng ta làm sao dám mang nó đi. Vậy phải trở về trình lại.
Đoạn bốn “thiên nhơn” ấy quay mình trở lại khiên cái kiệu trống không, bay bổng lên cao đi mất!
Nhựt Thăng đồng tử đứng ngơ ngẩn một hồi rồi đi trở vào nhà, kế đó giựt mình tỉnh giấc, trong lòng lấy làm lạ lắm. Sau này khi kể lại cho người anh thứ năm nghe câu chuyện này, ngài vẫn còn nhớ rõ từng chi tiết và thắc mắc hoài một việc, Ấy là:
Rõ ràng khi sự việc xảy ra như vậy, lúc đó mình còn thức chớ đâu có ngủ, thế mà khi đi trở vào nhà lại thấy mình vừa ngủ dậy nghĩa là sao?
(Đến đây Bảo Đăng tôi xin mạn phép dừng bút lại đôi chút để chú giải và làm minh (sáng) cái ý nghĩa của sự việc phi thường này ngõ hầu cho quý đọc giả hiểu thêm mà phát tâm trân trọng:
Sách có câu:
Hữu cầu tất ứng
Và trong Kinh cũng có dạy rằng:
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì.
(Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn).
mà chúng ta vẫn thường tụng niệm mỗi khi vào trong khóa lễ hằng ngày chính là đây, là trường hợp này vậy.
Như cố Hòa thượng của chúng ta khi còn thơ ấu – Mà đã thơ ấu như thế tức là còn mang tâm đồng tử. “Tâm đồng tử” này Kinh còn gọi một tên khác nữa là “Tâm vô phân biệt” chỉ có ở nơi Phật, Bồ tát cùng các vị thánh nhơn giải thoát mà thôi.
Gọi là “Tâm vô phân biệt” là vì trong tâm ấy tuyệt nhiên không có các niệm trần: ghét, thương, phải quấy cho chí đến thiện, ác … cả. Tâm ấy vắng lặng đồng như hư không.
Chúng ta thấy trong Kinh có các vị đồng tử chẳng hạn như là Thiện Tài đồng tử, Văn Thù Sư Lợi đồng tử v.v… mà Phật vẫn thường nhắc đến, là người học Phật, chúng ta phải hiểu rằng hai vị đồng tử Thiện Tài và Văn Thù đây không phải là hai đứa con nít đâu, mà chính là hai vị đại Bồ tát ở trong “Cảnh giới bất tư nghì giải thoát”, sở chứng của hai người đồng như chư Phật, duy chỉ thiếu có một điều là chưa thành bậc đại giác (Phật) mà thôi.
Sở dĩ gọi danh xưng là đồng tử cho hai Ngài là vì tâm của hai Ngài đã hoàn toàn dứt hết các vọng niệm phân biệt của chúng sanh và trở nên thuần chơn, trong sạch, tinh anh như tờ giấy trắng – lại giống như tâm của đứa con nít mới sanh ra chẳng vướng chút niệm trần.
Và vì thế nên được gọi là “đồng tử”. Tất cả các đại Bồ tát khác ở mười phương cúng đều được Phật gọi là đồng tử, vì quý NGÀI đã tu chứng được cái tâm “vô phân biệt” này hết rồi.
Trở lại và tiếp tục câu chuyện trên – Ta nhận xét thế nào và thấy gì qua sự việc này?
Ta nhận xét và thấy rằng:
1. Bởi vì lúc đó cố Hòa thượng còn gọi là một “đồng nhi” mới lên 8, 9 tuổi nên tâm của ngài rất là “đồng tử”, rất là CHƠN thật, lại thêm sanh ra và lớn lên nơi chốn rẫy bái, vườn ruộng quê mùa, nơi mà đa số dân chúng đều có tâm chơn thật (hơn người ở chốn thị thành).
2. Cả gia đình ngài cũng đều quê mùa – chơn thật.
3. Môi trường sống chung quanh ngài (các anh chị em trong gia đình) cũng đều chơn thật.
Ba, bốn cái “chơn thật” đó đã sớm hun đúc và nhào luyện con người đồng tử này khiến cho tâm Ngài trở nên thuần CHƠN, đạo đức và có nhiều niệm TIN TƯỞNG nơi đấng PHẬT trời.
Nghe mẹ dạy hễ “NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT” thì khỏi chết, nên cái tâm đồng tử, chơn thật của Ngài khiến Ngài liền tín nhận không một chút nghi ngờ, liên tiếp suốt hai năm dài, Ngài chấp trì danh hiệu ấy không xao lãng, và như thế mà vô tình ngài đã hành đúng theo lời Phật dạy về chữ ĐỨC TIN và chữ CHẤP TRÌ.
Kinh “Hoa Nghiêm” dạy:
“… lòng TIN là bước đầu vào đạo… là mẹ của tất cả công đức… lòng TIN hay nuôi lớn căn lành… lòng TIN hay thành tựu quả Bồ đề của PHẬT.
Cho nên cổ đức nương theo ý đó, dạy rằng:
Niềm tin là bước đạo sơ nguyên…
(Liên Du)
Và cũng bởi vì TIN cũng chấp trì danh hiệu “NIỆM TRỜI – NIỆM PHẬT” như thế suốt nhiều ngày, tháng, năm, không xen tạp, do đó mà phát sanh ra một sự “Cảm ứng”.
Chúng ta thấy sự cảm ứng của ấu nhi Nguyễn Nhựt Thăng này được chia làm hai phần:
a). Cảm ứng đến TRỜI (Thiên cảm ứng) vì trong câu niệm có hai chữ ”NIỆM TRỜI”.
b). Cảm ứng đến PHẬT (Phật cảm ứng) vì trong câu niệm có hai chữ ”NIỆM PHẬT”.
Do vì sự cảm ứng này đã đến thời điểm “chín mùi” rồi, cho nên đồng một lúc cả hai TRỜI – PHẬT đều hiện thân xuống chứng.
Trời thì cho rước về Trời để sống hoài nhưng (vì có học giáo lý cho nên ta biết rằng) cõi trời cũng vẫn còn nằm trong vòng sanh tử, chớ đâu có được trường tồn, bất diệt. Vì thế cho nên PHẬT mới hiện đến để minh chánh lại cho đồng tử Nguyễn Nhựt Thăng khỏi bị gạt lầm giữa hai cái “Bất lão” và “Bất tử”. Bởi vì thiên dân ở cỏi trời chỉ được bất lão (không già) thì có, chớ bất tử (không chết) thì không có.
Mà cái chủ đích, cái tác ý của Nhựt Thăng đồng tử là làm sao cho được “Bất tử” kìa chớ không phải là “Bất lão”. Vì thế nên PHẬT mới khai thị cho đồng tử rằng:
– “Này con, nay con nên niệm PHẬT đừng nên niệm TRỜI nữa, vì niệm PHẬT mới sống hoài, chớ niệm TRỜI thì còn có ngày phải chết”.
Cũng bởi do cái tác nhân [Túc nhân: là cái nhân mình gây tạo ra trong quá khứ, đại khái thì có 2 loại túc nhân: Một là túc nhân thiện, hai là túc nhân ác – lại có thêm 2 loại túc nhân khác, một là túc nhân có tu (đạo) – hai là túc nhân không tu (đời)] sâu đây dẫn dắt, khiến xui nên sau khi nghe xong lời dạy kia, ngài niệm PHẬT liền không đắn đo, do dự vì vậy mà được Phật thọ ký vãng sanh ngay lập tức, tiêu biểu cho việc thọ ký này là đóng con dấu “PHẬT ẤN” vào trán.
Sở dĩ ngài được thọ ký vãng sanh lẹ làng như thế là nhờ vô tình mà ngài hội đủ được bốn điều kiện sau đây:
1). Bỏ ngay bốn “thiên nhơn” không một chúc nuối tiếc và chạy liền về phía PHẬT – đây là tượng trưng cho hạnh “tốc xả tam giới”. [Tốc xả tam giới: Tức tốc rời bỏ 3 cõi là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Theo pháp môn Tịnh Độ, thì khi lâm chung chỉ cần giữ được chánh niệm (tức là khi gần chết chỉ cần nhớ niệm được chừng 10 câu Phật hiệu rồi tắt hơi, kẻ ấy sẽ nương theo nguyện lực của đức A DI ĐÀ Thế tôn siêu ra khỏi tam giới, và lập tức vãng sanh về Cực lạc Tịnh độ.]
2). Ôm lấy chân Phật – đây là tượng trưng cho hạnh “nhứt tâm quy mạng”. [Nhất tâm quy mạng: là một lòng nương về (nơi Phật) chớ không nương theo ai khác, dù kẻ đó là Trời, rồng, thần tiên, đi nữa cũng nhứt định chối từ]
3). Niệm Phật liên tục ba câu: đây là tượng trưng cho hạnh niệm Phật trọn vẹn cả ba thời: Ban đầu, giữa và rốt sau.
(Niệm Phật tam thời túc) [Niệm phật có đầu, có giữa, có cuối, nghĩa là từ khi phát tâm nguyện niệm Phật cho đến khi chết vẫn giữ y như vậy không thay đổi. Nếu trái nguyện thì gọi là “bất túc” thí dụ như ban đầu có niệm, vài ba năm sau thì không còn niệm nữa, v.v… Các trường hợp này đều không đủ tam thời và bất túc.]
4). Được tâm vô phân biệt của đồng tử – tức là tượng trưng cho nhứt tâm hạnh.
Đây rõ ràng là bốn cái yếu tố chánh để được vãng sanh về cõi Cực lạc thế giới của đức A DI ĐÀ Thế tôn trong Tịnh Độ pháp môn. Mà sau này khi lớn lên, xuất gia và trở thành một bậc đại tăng danh đức rồi, Ngài chuyên ròng tu hạnh niệm Phật và hoằng dương pháp môn Tịnh Độ, nổi danh là một Việt Nam Tịnh Độ tôn sư lừng lẫy nhứt của thế hệ đương thời.
Còn về việc “thắc mắc” của Ngài trong lúc nhỏ tức là:
– “Không hiểu tại sao rõ ràng THỨC chớ đâu có NGỦ thế mà khi đi trở vào nhà lại thấy mình vừa mới NGỦ DẬY”?
Và đây cũng chính là cái thắc mắc của tôi khi tôi đọc quyển “Tây Liên tùy bút lục” đến đoạn này.
Tôi có hỏi Đại Đức bổn sư Thích Hải Quang để nhờ thầy minh nghĩa rằng:
– Bạch thầy sao vậy?
Thầy giải đáp như sau:
– Thật ra, việc ấy cũng không có gì khó hiểu cho lắm. Sở dĩ có chuyện như vậy là vì mình không thể nào dùng cái nhục thân tứ đại bất tịnh này để gặp và thấy chư Thiên, chư Phật được. Bởi thân tứ đại của ta là thân “Thô phù” [Thô phù: to lớn nặng nề (vì chứa đầy tứ đại và nghiệp nhân phiền não)] còn thân của quý NGÀI là thân “thạnh tịnh” và “cực vi tế” [Cực vi tế: là vô cùng nhỏ nhiệm gần như là vô hình, vô ảnh vậy. Mắt thường không thể nào thấy được mà phải dùng thiên nhãn mới trông rõ mà thôi. Trong Niết Bàn kinh nói: “Lúc ấy trong hư không, một khoảng trống nhỏ bằng đầu mũi kim cũng dung chứa vô lượng thiên chúng.”. Như vậy cũng đủ thấy cái “Cực vi tế” ấy như thế nào rồi.]. Muốn thấy thân thanh tịnh và cực vi tế ấy thì không thể dùng nhục nhãn (là con mắt thịt của mình) để thấy mà phải dùng “thức nhãn”(tức là con mắt của pháp thân) mới thấy được mà thôi.
Khi đồng tử Nguyễn Nhựt Thăng “LỒM CỒM NGỒI DẬY VÀ ĐI ĐẾN BÊN CỬA SỔ ĐỂ NHÌN” thì chính ngay lúc đó là lúc mà cái THỨC (tức là cái hồn) của Ngài ngồi dậy và bước đi ra khỏi thân tứ đại chớ không phải cái xác của Ngài đi đâu, thân xác của Ngài thì vẫn còn nằm ngủ mê ở trên bộ ván, hay nói cho dễ hiểu là:
“Xác thân nằm đó, hồn đi chơi rồi”
Việc này cũng như chiêm bao vậy. Có hai loại chiêm bao chánh là: mộng và mị.
– Sao gọi là “mộng” và sao gọi là “mị”?
– Mộng đây tức là “Mộng thực” do nơi tâm tịnh và thức nhãn mà thấy được các việc sẽ xảy ra trong tương lai. Khi thức dậy thì nhớ biết rõ ràng từng chi tiết không lầm lộn. Như chiêm bao thấy khóc thì lúc thức dậy vẫn còn thổn thức và nước mắt chứa chan, thấy bị rượt chạy thì khi thức dậy vẫn còn bị mệt mỏi và chân tay bải hoải, rã rời v.v…
– Mị đây tức là giả dối, do nơi mơ tưởng thái quá mà thành, đây gọi là “A lại da biến tướng” tức là nó duyên theo tâm tưởng mà hiện ra chớ không có thật, khi thức dậy thì quên hết hoặc có nhớ thì đầu đuôi lộn xộn, chút sau thì liền quên bẵng đi ngay.
Như trường hợp của cố Hòa thượng đây thì được gọi là mộng và cũng tương tự như phép xuất hồn ở bên đạo tiên vậy. Tối lại thì họ nằm xuống ngủ, mũi ngáy khò khò, mà hồn đã xuất ra đi dạo chơi nơi Bồng lai tiên cảnh rồi, sáng mới trở về nhập lại vào thân, thức dậy như thường.
Tôi hỏi:
– Bạch thầy cố Hòa thượng lúc đó mới có 9 tuổi mà làm sao Ngài có được khả năng xuất hồn như vậy?
Đại Đức bổn sư đáp:
– Đương nhiên là Ngài không có khả năng ấy đâu. Nhưng sở dĩ hồn (thức) của Ngài xuất ra được như vậy là nhờ nơi thần lực của bốn vị thiên nhơn kia muốn rước (hồn) Ngài đi mà thôi và nếu như trường hợp này mà suôn sẻ, tức là không nhờ Phật hiện thân ra ngăn cản, thì thần thức của Ngài sẽ lên kiệu về “Chầu trời” ngay trong đêm đó rồi còn sống đâu mà tu hành và làm đại lão Hoà thượng thọ đến 68 tuổi sau này được.
***
Kể từ khi cố Hòa thượng chiêm bao thấy các sự việc như thế và được đóng “Phật ấn” vào trán rồi thì mấy hôm sau ngay chính giữa trán của Ngài nổi lên một “cục thịt u” lớn như đồng xu ai nấy cũng đều trông thấy (mấy tháng sau mới lặn mất).
Phụ mẫu của Ngài cùng với các huynh đệ trong gia đình và các người quen biết chung quanh thấy lạ nên hỏi duyên cớ, Ngài chỉ nói rằng vì sơ ý đụng vào cột nhà nên bị u đầu mà thôi.
– Từ đó trở đi, tự nhiên Ngài phát trí huệ một cách lạ lùng mới có 9, 10 tuổi đầu mà Ngài đã có thể đọc và hiểu chữ Nho một cách rõ ràng như một người đã từng học Hán văn mười mấy năm dài. Các bộ sách Nho văn của thân phụ như là: Tứ thơ, ngũ kinh, v.v… Ngài đều thông thuộc hết, chẳng những thế mà ngài còn hiểu được tường tận nghĩa lý của nó như một nhà Nho chánh hiệu (Nho giả) không khác.
Những khi rỗi rảnh Ngài thường ưa đem sách Nho ra đọc và giảng giải cho thân mẫu của Ngài nghe một cách mạch lạc và có phương pháp rõ ràng khiến cho phụ mẫu của Ngài cũng phải sửng sờ kinh ngạc. Vì thế cho nên trong số các con của gia đình thì Ngài là người được phụ mẫu thương, quý nhiều nhất.
Một ngày nọ, bỗng nhiên Ngài hỏi anh của Ngài rằng:
– Anh năm còn nhớ giấc chiêm bao mà tôi kể cho anh nghe lúc trước chăng?
Anh năm của Ngài đáp:
– Có, tôi còn nhớ rõ lắm, với lại nữa những gì mà chú kể tôi nghe, tôi đều vào trong quyển vở riêng của tôi để sau này làm kỷ niệm.
Ngài cười nói:
– Vậy cũng tốt, nay tôi có bài thơ này trao cho anh để anh giữ luôn cho trọn bộ.
Trong lúc anh năm của Ngài còn đang ngạc nhiên không hiểu thơ gì sao mà đứa em nhỏ của mình lại biết làm thơ? Thì Ngài trao cho anh tờ giấy tập, trong đó ghi một bài thơ (tuyệt diệu bất hủ) như sau:
Niệm PHẬT niệm TRỜI công đức huân
Mẫu từ lời dạy trẻ liền tuân
Mưa nắng hai mùa chuyên gắng niệm
Tứ thánh, kiệu vàng giáng hạ “KHUÂN”
Thương trẻ bị lầm, chơn PHẬT hiện
Ấn vàng in trán khiến “Đình KHUÂN”
Từ nay thôi niệm trời con nhé,
Niệm PHẬT sống hoài bất biến xuân
Nhựt Thăng
(Những ngày thơ ấu)
Rõ ràng đây là một bài thơ Đường luật, thất ngôn bát cú rất khó làm, chưa chắc gì thân phụ của Ngài là một nhà nho (hoặc là chính chúng ta đi nữa) mà có thể sáng tác được, huống chi là một đứa trẻ mới có 9, 10 tuổi đầu!
Vả lại, từ khi Ngài chào đời và lớn lên chừng tuổi này, trước sau vẫn ở nơi quê mùa, ruộng rẫy, chưa từng lên chốn thị thành hay gặp một cao nhơn nào khác ngoài phụ mẫu, và ông giáo học trường làng ra, vậy thì làm thế nào, và làm sao mà Ngài lại có thể sáng tác được một bài thơ tuyệt vời, đúng niệm luật như vậy được?
Qua bài thơ trên ta thấy chỉ nội trong vòng 8 câu thi thôi mà Ngài tóm lược hết tất cả giấc mộng và việc hành trì của Ngài suốt hơn hai năm về trước. Nếu không phải là Phật đã ban cho Ngài cái trí huệ khác thường, thì không có cách chi mà một đồng nhi mới 9, 10 tuổi đầu lại có thể hạ bút thành thi, và đó là một bài thơ rất có giá trị về đạo học, nhất là riêng cho pháp môn Tịnh Độ (mà Ngài hoằng dương sau này).
Riêng cá nhân tôi khi xem quyển “Tây liên tùy bút lục” và đọc đến bài thơ này, tôi cảm phục Cố Hòa thượng vô cùng. Tôi hồi tưởng lại thuở Ngài còn ấu thơ mà đầy đủ tài đức như vậy… và bây giờ thì:
Nước trời đà cách biệt từ dung,
Mộ biếc chỉ hắt hiu thu thảo.
Khiến cho lòng tôi đau xót, ngậm ngùi, nuối tiếc một bậc tôn sư đạo hạnh đã vĩnh viễn ra đi.
Ôi thôi!
Từ đó trở đi không gặp lại,
Trời Tây ẩn dạng bóng thần long.
Và mặc dầu ý của bài thơ trên đã rõ ràng như thế, như Bảo Đăng tôi vẫn còn e rằng các đọc giả trẻ tuổi, theo tân học không rõ thấu hết nghĩa chăng? Nếu như vậy thì luống phụ công ơn của Sư Ông đã có lời nhắn gởi qua “thơ ý” cho lớp người mai hậu sau khi ngài viên tịch là phải nên nhớ niệm Phật và niệm Phật, cầu nguyện vãng sanh.
Để bảo đảm được “chắc ý” hơn, tôi xin lược giảng ý nghĩa của bài thơ này cho dễ hiểu như sau:
Câu thứ nhất:
Niệm Phật, niệm trời công đức huân,
(Là ý, nói khi ta niệm Phật niệm trời (tức là niệm Thiên) là ta đã huân tập (chất chứa) đầy đủ công đức rồi).
Câu thứ hai:
Mẫu từ lời dạy trẻ liền tuân.
(Là ý nói lời của mẹ hiền đã dạy như thế thì con trẻ tuân theo liền không đắn đo gì hết).
Câu thứ ba:
Mưa nắng hai mùa chuyên gắng niệm,
(Là ý nói hai năm – một năm có 1 mùa mưa và 1 mùa nắng – chuyên cần và gắng sức niệm như lời mẹ dạy).
Câu thứ tư:
Tứ thánh, kiệu vàng giáng hạ KHUÂN.
(Lá ý nói bốn ông thánh ở trên trời khiêng cái kiệu vàng xuống KHUÂN (mang vác) ngài lên trời).
Câu thứ năm:
Thương trẻ bị lầm chơn Phật hiện.
(Là ý nói Phật động lòng từ bi khi thấy con trẻ bị lầm cầu về cõi trời là nơi vẫn còn nằm trong vòng sanh tử nên hiện thân ra chỉ dẫn lại cho đúng).
Câu thứ sáu:
Ấn vàng in trán khiến “Đình khuân”
(Là ý nói Phật lấy cái ấn vàng “Tam bảo ấn” in lên trán để làm dấu đây là con của Phật, khiến 4 ông thánh kia phải đình chỉ lại việc khuân ngài về chầu trời).
Câu thứ 7 và thứ 8:
Từ nay thôi niệm Trời con nhé,
Niệm Phật sống hoài bất biến xuân
(Là ý nói nếu như muốn sống mãi trong mùa xuân bất biến nơi cõi Cực lạc Tịnh độ thì từ nay trở đi nên niệm Phật (A DI ĐÀ) chớ đừng có niệm TRỜI. Vì cõi trời vẫn còn có biến đổi và hoại diệt).
Đây quả thật là một bài thơ của ngài khuyên các hàng thiện, tín đời sau phải nên phát tâm niệm Phật cầu sanh Cực lạc chớ không phải là một bài thơ theo lối thông thường. Theo ý tôi nghĩ thì lúc Ngài làm bài thơ này và mang đến trao cho anh năm của ngài lưu giữ cả điềm mộng lẫn bài thơ (Trong quyển Tây liên tùy bút lục) chắc là có Phật, Bồ tát gì đó tá trợ, khiến cho Ngài làm nên việc này để lưu hậu chăng?
Sở dĩ Bảo Đăng tôi nghĩ như thế là vì sau khi đọc kỹ lại những lời Ngài hỏi và nói với anh của Ngài, tôi nhận thấy trong đó có tàng ẩn cái phong cách của một người trưởng thượng, nhất là qua câu:
– “Vậy cũng tốt, nay tôi có bài thơ này trao anh để anh giữ luôn cho trọn bộ”.
Chắc có lẽ quý vị đồng ý với tôi về điểm này?
Hơn nữa, khoảng giữa bút lục cũng có một vài dòng ghi về Ngài như sau:
“Mấy lúc sau này mình thấy chú Thăng nó có vẻ gì hơi khác lúc trước, đi đứng và nói chuyện giống như một “ông sư con chưa cạo đầu” không bằng.
Và ở đoạn khác có câu:
“Làm cho mình không dám coi thường chú nó nữa”.
Mà quả thật vậy, một đồng nhi mới có 9, 10 tuổi đầu mà đã có thể sáng tác được một bài thơ Đường đầy đủ ý nghĩa như thế thì gọi là một “Ông sư con”và “không dám coi thường”cũng không có chi là quá đáng.
Riêng về phần Ngài, mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng sự thông minh và hiểu biết của Ngài không phải nhỏ. Mỗi lần ngồi trên ghế uống trà, nghe Ngài đọc sách và giảng giải nghĩa lý cho cụ bà nghe, cụ ông cũng phải lắc đầu khâm phục.
Cụ ông vẫn thường nói với cụ bà rằng:
– Trong một đám con của mình thì thằng Thăng nó cũng tựa như là long phụng…
Còn cụ bà thì nhắc:
– Tôi nhớ trước kia trong chiêm bao, khi trao nó cho tôi bà tiên có nói rằng: đây là La hầu La quý tử… Vậy La Hầu La là ai vậy?
Cụ ông giải thích:
– La Hầu La là con của Phật lúc ngài còn làm Thái tử ở vương cung. Sau này khi Thái tử xuất gia và tu thành Phật rồi thì ngài về độ La Hầu La theo Ngài đi tu luôn.
Cụ bà nghe nói như vậy thì trong lòng lấy làm lo lắm, bởi vì bà sợ rằng một ngày nào đó, đứa con của bà yêu quý nhất sẽ bỏ nhà đi tu.
Bà đem ý đó bày tỏ cùng chồng.
Cụ ông an ủi:
– Nó có phần nó. Bà đừng lo nghĩ nhiều mà thêm bệnh. (Bởi vì bà cụ sanh sản nhiều lần – 13 đứa con, nên sức khỏe yếu kém, đau bệnh dây dưa không dứt, chính vì việc này mà cố Hòa thượng phải đi học đông y để trị bệnh cho mẹ. Đó là việc sau).
Về tư cách cá nhân của Ngài, tuy là còn thơ ấu, nhưng tánh siêng năng, hiếu học, giỏi dắn và thông minh của ngài đã khiến cho mọi người trong xóm đều trầm trồ khen ngợi và thường đem Ngài ra làm gương để rầy la, dạy dỗ con cháu của mình.
Chẳng hạn như là: Mầy hư quá biết không? Bộ mầy không thấy thằng Mười Thăng con của Bà sáu Hương sao, người ta bằng tuổi mầy thôi mà giỏi như vậy, còn mầy thì…
Hoặc là: Mầy đã dốt đặc rồi mà còn thêm làm biếng học nữa, sao không noi theo gương của thằng Mười Thăng con Bác sáu Hương mà (bắt chước chớ) không lo học hành thì sau này chỉ còn có nước là đi chăn trâu mà thôi con ạ….
(Đến đây tôi chợt nhớ đến bài hát “em bé quê”của nhạc sĩ Phạm Duy tự nhiên tôi mĩm cười, tôi nghĩ rằng bà cụ nào mà la rầy con “chỉ có nước đi chăn trâu thôi”… là vì bà chưa nghe bài hát này có câu rằng:
Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chớ… Ngồi mình trâu, phất ngọn cờ lau mà miệng hát nghêu ngao…
Cho nên đối với con nít thuộc loại làm biếng học mà mình hăm he nó đi chăn trâu nó đâu có sợ, bởi vì nó nghĩ rằng đi chăn trâu sướng hơn đi học nhiều như là khỏi bị học bài, khỏi bị thầy giáo khẻ tay khi không thuộc bài … v.v…)
Trong những chuỗi ngày thơ ấu của cố Hòa thượng, ngoại trừ những sinh hoạt bình nhật cá nhân và đại gia đình ra, thỉnh thoảng nếu như có ai là người tinh tế và để ý một chút ắt sẽ thấy ở nơi con người của Ngài – nhất là về phần tánh tình – có rất nhiều nét đặc biệt khác thường mà một đứa trẻ ở vào tuổi ngang bằnghoặc lớn hơn (như các anh chị của ngài) không sao có được.
– Chằng hạn như về sự an nhiên và điềm đạm của Ngài thì lúc nào cũng êm đềm và phẳng lặng như mặt nước hồ thu, sự thông minh và hiểu rộng (về sách vở) của Ngài thì cả làng, xã không ai dám sánh, đặc biệt nhất là TÂM ĐẠO của Ngài thì chẳng những các anh chị em trong gia đình thôi, mà cho chí đến bậc phụ mẫu của Ngài cùng với những người lối xóm, chung quanh cũng không có một ai theo kịp.
Người không học đạo ắt sẽ không hiểu vì sao mà lại có những sự việc khác lạ như vậy ở nơi người ấu nhi mới 9, 10 tuổi này. Nhưng vì có học và hiểu đạo, nên chúng ta biết rằng, sở dĩ những đức tánh đó đều hội đủ và thể hiện ra ở nơi người đồng tử này là do nơi “thiện căn” và “chủng tử” tu hành trong tiền kiếp của Ngài nó huân tập (chất chứa) lại phát ra (trong hiện kiếp này) nhất là khi Ngài còn đang ở vào trong lứa tuổi ấu thơ, vô tư, không tội vạ (vô phân biệt).
Tại sao các thiện căn và chủng tử này chỉ phát hiện ra phần nhiều ở vào trong lứa tuổi đồng tử mà hiếm xảy ra nơi người lớn?
Bởi vì ở lứa tuổi đồng tử thì tâm chưa có vọng sanh ra các cấu uế, phiền não, nhơn, ngã, thị phi, thấp cao, phải quấy … v.v… cho nên cái tâm ấy nó “thuầnchơn” sạch sẽ và trắng trong như một tấm lụa trắng chưa có nhuộm màu, vì vậy mà nó rất dễ dàng phản ảnh lại các túc căn tiền kiếp.
Còn ở nơi người lớn thì ngược lại cái tâm “thuần chơn” đó đã bị các duyên đời cùng các trần lao, phiền não, cấu trược, … khác dẫn dắt kéo lôi, nên chìm đi mà vọng sanh ra điên đảo, mê lầm, mất phần sở thủ, giống như mảnh lụa đã nhuộm màu rồi thì đâu còn trong trắng nữa, cho nên vì thế mà quên hết các thiện căn túc tập trong quá khứ của mình. Rồi từ đó trở đi cho chí đến ngày cuối của cuộc đời, cứ theo duyên trần cùng với những nghiệp (mới) tạo ra trong hiện kiếp đây trôi lăn trong trầm lụy.
Tôi đã thấy rất nhiều sự việc như vậy:
Xin đơn cử ra đây một bằng cứ:
– Lúc nhỏ tôi có một người bạn gái, chị cũng bình thường như những thiếu nữ khác thôi chớ không có gì đặc sắc cho lắm. Đến khi lập gia đình rồi thì vợ chồng chị sanh một đứa con trai (đầu lòng và duy nhất) đứa bé có dung mạo rất khả ái, ai nhìn thấy đều cũng sanh lòng cảm mến hết.
Ấu nhi này có một đặc biệt là nó không ăn và không chịu được các mùi hành, tỏi, thịt, cá. Mỗi lần cha mẹ cho ăn các thứ này thì nó ói và khóc đi như chết vậy. Trái lại với cơm trắng, tàu hủ, nước tương, rau luộc thì nó ăn ngon lành vui vẻ.
Hai vợ chồng chị đều thấy lấy làm lạ, và phải chi con mình nó ăn như vậy chừng 5, 7 tháng, một hai năm thì còn miễn cưỡng chịu được, đằng này đến khi lên 4, 5 tuổi sắp đi học rồi mà nó vẫn y chang như cũ, khiến cha mẹ lo ngại, sợ nó ốm o, bịnh hoạn, không đầy đủ sinh tố và sức khỏe. Nhà chị là một gia đình khá giả lại có độc nhất một mụn con này nên cưng lắm, do vậy nên từ đó vợ chồng chị mới bắt đầu tìm đủ mọi cách, nào gạt gẩm (như trộn nước thịt, cá vào cơm) ép buộc, dụ dỗ (ăn thịt thì cho tiền, cho kẹo v.v…) khiến sao cho con mình ăn được thịt cá mới nghe, cứ riết như vậy cho đến năm đứa nhỏ lên 8 tuổi, thì vợ chồng chị hoàn toàn thành công, chiến thắng và ca khúc khải hoàn, còn đứa bé thì từ đó trở đi chỉ ưa ăn toàn là cá thịt, lâu lâu vợ chồng chị thử cho ăn lại như xưa (xem sao) thì nó chê và không còn thèm nữa.
Lúc đó tôi còn nhỏ tuổi, chưa có học và hiểu biết gì về đạo pháp nên mặc dù thấy như vậy mà cũng không có ý kiến hay khuyên ngăn chi hết (và cũng không quan tâm đến nữa). Sau này khi lớn khôn, lập gia đình, học hiểu đạo pháp và làm Phật sự… mỗi khi nhớ đến việc này là lòng tôi bùi ngùi, cảm khái, thương cho đứa bé kia và cũng thương cho một bậc làm cha mẹ sai lầm, đến nổi dìm mất và tiêu hủy đi cái căn tu của con mình trong quá khứ.
Còn ở nơi cố Hòa thượng đây, nhờ được sanh trưởng trong một gia đình quê mùa, chơn chất nơi rẫy bái, ruộng vườn, cha mẹ tuy không hiểu nhiều về Phật lý, nhưng đều có khuynh hướng Phật giáo, vả lại vì ở quê làm ruộng thì chỉ tạm đủ sống qua ngày, đâu có dư dả bạc tiền để ăn cho nhiều thịt, cá như các người giàu sang nơi thành thị, mà phần lớn những bữa ăn trong gia đình chỉ dùng toàn các loại rau, đậu trồng phía sau vườn nhà, các con muốn ăn uống thế nào phụ mẫu cũng không ép uống, vả lại nhiều con quá 13 đứa con thì làm sao có đủ tiền để mua thịt cá ăn mỗi ngày, phần thì chợ búa ở xa, mỗi lần muốn đi chợ phải chèo ghe mất mấy tiếng đồng hồ mới đến, nên ông bà cụ còn cầu cho các con ăn càng nhiều rau đậu, tương chao, dưa muối bao nhiêu lại càng tốt bấy nhiêu.
Và như vậy mà vô tình ông bà cụ đã tùy thuận theo căn tánh của mỗi đứa con mình, đứa nào căn đời thì theo đời, người nào căn đạo thì theo đạo chớ không cưỡng ép.
Cũng đồng trong hai sự việc vô tình, nhưng trường hợp vô tình của ông bà cụ đây là “vô tình thuận duyên” cho các con, còn vô tình của vợ chồng người bạn tôi ở trên là một “vô tình tai hại” cho thiện căn của con mình trong quá khứ và đường đạo cùng sự giải thoát của nó ở tương lai.
Cũng nhờ như thế cho nên cố Hòa thượng của chúng ta khi còn thơ ấu đã được dịp ăn chay “thả cửa” thỏa thích, no lòng (khỏi lo ói mửa) lại thêm vào đó là có tâm niệm PHẬT, niệm TRỜI cho nên cảm ứng đến bề trên xuống rước… và được Phật đóng “Phật ấn” vào trán thọ ký vãng sanh, khỏi bị mai một đi cái thiện căn tu hành trong tiền kiếp.
Đây gọi là “trong cái rủi có cái may” vậy.
– Sao gọi là rủi mà có may?
– Rủi là sanh ra trong gia đình nghèo, quê mùa rẫy bái nên không được mặc quần áo đẹp sang, lên xe xuống ngựa, ăn uống dư thừa. Còn may là khỏi bị mất thiện căn tiền kiếp, sau này xuất gia, đi tu, trở thành một vị cao tăng đủ đầy đạo hạnh và được giải thoát vãng sanh, mang lại tiếng tốt cho gia đình, niềm tin cho Phật tử cùng đạo pháp, khiến cho ngàn vạn người lưu luyến tiếc thương, danh lưu vạn thuở.
Còn như trường hợp đứa bé con của vợ chồng người bạn tôi ở trên thì gọi là “trong may mà có rủi” vậy. Rốt lại thì cuộc đời của nó sau này khi lớn khôn lên rồi thì cũng vị kỷ, cũng cá nhân, cũng lục lục thường tài và cuối cùng rồi nó cũng chết đi một cách tầm thường như những người khác trong xã hội vậy mà thôi.
Đáng tiếc, đáng tiếc!!!
Điều này người đời mấy ai biết, ai hay và để tâm lưu ý đến mà hồi đầu tu niệm?
Qua ý này, cổ đức bài thơ rằng:
Nhựt lặn giờ Dậu,
Tàn dương sắp tàn, màn đêm rũ.
Tử sanh việc lớn biết chăng ai?
Kẻ ngu tầm mắt nhìn gần gũi.
Luyến tiền tài,
Thích trà rượu.
Dong rủi đông tây không biết đủ!
Bôn ba chẳng rảnh niệm Di Đà,
Già chết kề bên đành thúc thủ!
(Hoàng Phủ Sĩ Phương)
(Liên du dịch)
Bảo Đăng xin lược qua ý của bài thơ này:
– Giờ Dậu bắt đầu từ 7 giờ tối, hoàng hôn đến rồi và mặt trời sắp lặn, tàn dương chỉ còn sót lại vài ba tia sáng chói, le lói ở cuối chân trời. Màn đêm đang từ từ buông xuống.
Đây là tượng trưng cho khoảng thời gian già héo và các ngày cuối cùng của cuộc đời ta sẽ còn không bao lâu nữa.
Sống, chết là việc lớn lao nhất trên cõi đời này mà người thế gian có biết hay chăng? Hãy xử sự như người có trí huệ, hiểu biết cao xa, chớ đừng nên làm như các kẻ ngu mê vô trí, thấy hiện tại mà chẳng thấu tương lai, trọn đời chỉ có biết tiền bạc, rượu chè, bôn ba nơi đường danh, nẻo lợi, tham cầu hoài, được bao nhiêu cũng không thấy đủ. Thảng như có ai nhắc đến việc niệm Phật, tu hành thì lắc đầu nói rằng không có rảnh rang, hoặc để thủng thẳng rồi sẽ tính…vv…
Quang âm thấm thoát, thời tiết đổi dời, tháng lại qua ngày qua… Già chết đến nơi thì chỉ còn có một cách là cúi đầu thúc thủ trước Diêm vương, rồi theo nghiệp đọa vào trong địa ngục mà thôi, tránh sao cho thoát.
Chừng đó làm sao ăn năn cho kịp!
Khoảng gần cuối năm 1935, lúc cố Hòa thượng được hơn 10 tuổi, thì lại có thêm một việc ngẫu nhiên, lạ lùng khác nữa xảy ra làm căn bản cho con đường xuất gia tu học của ngài sau này.
Sự việc ấy như sau:
– Buổi sáng hôm đó nhằm ngày nghỉ học, ngài theo thân phụ ra đồng để cắt cỏ lúa (Gọi là cắt cỏ lúa bởi vì nhà nông sau khi cấy lúa xuống ruộng xong rồi, thì một thời gian ngắn sau cỏ dại cũng bắt đầu mọc lên xen lẫn với lúa, lúa mọc cao thì cỏ dại cũng mọc cao theo,vì vậy mà phải cắt bỏ cỏ dại này thì lúa mới tốt bằng không thì sẽ bị cỏ làm cho yếu sức đi. Khi trổ bông ra sẽ không có nhiều hột và như thế sẽ bị thất mùa. Việc này các giới nông gia ở miền Tây đều biết rõ hết).
Trong lúc đang cùng với thân phụ cắt cỏ lúa ở trong ruộng, ngài bất chợt nhìn lên và thấy trên bờ lộ có một vị tăng sĩ, mình mặc áo vàng chân đang bước đi nhàn nhã… Bỗng dưng ngài cảm thấy lòng mình bồi hồi xúc động, hình ảnh vị “PHẬT HÒA THƯỢNG” trong mơ năm xưa bỗng dưng hiện ra rõ ràng nơi tâm khảm, khiến cho đầu óc của ngài bàng hoàng, ngây ngất như vừa uống xong một ly rượu mạnh.
Ngài liền dừng tay lại, đứng thẳng người lên, sửng sốt ngó theo vị Hòa thượng đang đi ấy một hồi rồi tự nhiên bước chân ra khỏi ruộng lúa, leo lên bờ đê và chạy ùa theo Hòa thượng khiến cho thân phụ ngài ngạc nhiên hết sức.
Khi chạy qua khỏi Hòa thượng, khoảng chừng 5, 6 thước rồi, ngài liền quỳ đại xuống mặt lộ, đón đầu Hòa thượng đang đi đến, lạy đùa một hơi 3, 4 lạy.
Thấy một chú bé không rõ từ đâu ở phía sau chạy tới đón đầu mình rồi “a thần phù” quỳ xuống lạy đùa “bất kể hà xứ” như vậy, ban đầu thì hòa thượng hơi có vẻ ngạc nhiên một chút, nhưng rồi ngài cũng dừng chân lại, lấy tay vò đầu chú bé khôi ngô và dễ thương kia mấy cái mà khen rằng:
– Con giỏi lắm, biết cung kính chư tăng và lạy chào ta là một người hòa thượng.
Khen xong hòa thượng lại tiếp tục bước đi theo hướng của mình.
Ngài đứng bơ vơ một mình trên đường lộ, ngây người ngó theo, có lẽ do nơi thiện căn và túc duyên trong tiền kiếp đối với hòa thượng cho nên ngài cảm thấy tự đáy lòng mình dâng lên một niềm thương mến và lưu luyến vị hòa thượng đang đi ấy vô bờ, ngài liền chạy theo và một lần nữa cũng y như trước, quỳ xuống đón đầu hòa thượng cung kính lạy chào.
Hòa thượng rất lấy làm ngạc nhiên vì đây là lần thứ hai mà chú bé dễ thương kia chạy theo đón đầu mình đảnh lễ, tuy nhiên ngài cũng dừng bước lại, vò đầu chú bé và khen ngợi thêm một lần nữa rồi lại tiếp tục bước đi theo hướng của mình.
Nhưng hòa thượng đi chưa đầy trăm thước thì ngài thấy vẫn y chang là chú bé khi nảy chạy vù qua mặt mình rồi quỳ xuống đón đầu lạy bất kể, tựa như tế sao vậy. Hòa thượng ngạc nhiên quá sức, vì lần thứ nhất thôi hãy xem như là bình thường đi, đến lần thứ hai thì thấy hơi “là lạ” rồi bây giờ là lần thứ ba nó đón đầu mình mà lạy thiếu điều muốn nhào đầu, nhào cổ! Vậy là sao? Từ trước đến nay mình chưa bao giờ và bị lạy một cách kỳ lạ, đặc biệt giữa đường, giữa lộ như vậy hết. Cớ chi một đứa con nít nhỏ xíu lại có lòng cung kính người tu đến thế?
Thôi thì “bất quá tam” (không quá 3 lần) ta sẽ hỏi cho ra lẽ mới được. Đoạn hòa thượng trụ lại, đỡ cậu bé đứng lên và khom lưng xuống nhìn kỹ vào gương mặt của nó một hồi, bổng dưng ngài nhận thấy có một sự việc gì đó rất đáng lưu ý ở nơi con người của cậu bé này, nên ngài mới khen rằng:
– Tốt lắm, giỏi lắm, này con, con đã 3 lần con có lòng cung kính chạy theo đón đầu ta làm lễ bái như vậy tất cũng đủ biết rằng con có căn tu rất lớn rồi. Sách có câu: “Trọng thầy mới được làm thầy”. Nay con có lòng quý trọng người tu và riêng ta là một hòa thượng như thế thì sau này khi lớn lên ắt con sẽ được đi tu và rồi cũng sẽ trở thành một hòa thượng như ta ngày hôm nay vậy.
Con tên gì, cha mẹ là ai và nhà cửa ở đâu có gần đây hay không?
Đồng tử cung kính đáp:
– Bạch hòa thượng, con tên Nguyễn Nhựt Thăng, năm nay con được 10 tuổi. Nhà con cũng ở gần đây chớ không xa mấy.
Hòa thượng bảo:
– Hãy dẫn ta đến gặp mặt ba má con có được không?
Đồng tử đáp:
– Bạch hòa thượng được. Tiện dịp ba con đang làm cỏ lúa ở gần đây, để con hướng dẫn hòa thượng đến.
Đoạn dẫn hòa thượng tới gặp thân phụ của ngài nơi ruộng lúa và giới thiệu.
Hòa thượng nói với thân phụ của ngài rằng:
– Cậu bé con của ông đây có căn tu lớn lắm chớ không phải tầm thường đâu. Tôi đã xem kỹ tướng của nó rồi thì thấy nhơn duyên nó sau này là nhơn duyên xuất gia chớ không phải ở ngoài đời. Ông nên cho nó đi tu chớ đừng nên giữ nó ở gia đình mà tội nghiệp cho nó bị mai một cái thiện căn tu hành trong kiếp trước uổng lắm.
Tôi là Hòa thượng PHẬT ẤN trụ trì chùa Vĩnh Tràng tại chợ Mỹ Tho. Nếu như về sau ông muốn cho đứa bé này đi tu, hãy dẫn nó đến gặp tôi ở đấy.
Sau đó rồi hòa thượng từ giã hai cha con và tiếp tục đi lo công việc của mình, để lại trong cõi lòng của đồng tử Nhựt Thăng ngàn nỗi muôn nhớ nhung, hoài vọng.
(Đến đây tôi xin dừng lại một phút để nhắc quý đọc giả lưu ý một điều quan trọng, đặc biệt nhất.
Đó là:
– Hơn một năm về trước cố Hòa thượng của chúng ta nằm mơ thấy được “Phật Hòa thượng” đóng một cái PHẬT ẤN vào trán và nhận ngài làm Phật tử, tách ngài ra khỏi cảnh giới của chư thiên.
– Hơn một năm sau ngài lại gặp được một vị hòa thượng cũng tên PHẬT ẤN hứa sẽ tiếp độ ngài đi tu. Hai cái PHẬT ẤN này tự nhiên trùng hợp lại. Rõ ràng là cái việc xuất gia, đi tu và thành đạo của ngài sau này không phải là một sự ngẫu nhiên đâu mà chính là Phật đã có định trước (tiền định) cho ngài rồi vậy.
Sau lần được diện kiến, đảnh lễ và hầu cùng với PHẬT ẤN Hòa thượng nơi quan lộ rồi, từ đó trở đi ngoài giờ học và cách sinh hoạt bình nhật trong gia đình ra, ngài dành hầu hết các thời giờ rỗi rảnh của mình đến lễ Phật nơi ngôi chùa cổ ở trong làng nhiều hơn có đôi khi ở đó luôn cả buổi mới về nhà.
Tánh tình của ngài vốn dĩ đã trầm lặng, nay lại còn trầm lặng và trang nghiêm hơn khiến cho phụ mẫu của ngài đôi lúc cũng phải thầm e ngại và để ý quan sát các chuyển biến về nội tâm nơi đứa con trai nhỏ của mình. Tuy không nói ra, nhưng trong thâm tâm của hai cụ đều cùng có chung một niềm cảm nghĩ rằng:
– Rồi một ngày nào kia, đứa con trai nhỏ yêu quý của mình chắc cũng sẽ bỏ nhà đi tu mà thôi và sau này có thể nó cũng trở thành một người hòa thượng giống như ông hòa thượng mà mình đã gặp dạo nào không chừng.
Và rồi thời gian như thế…
Tuần tự trôi qua…
Lúc đó cố hòa thượng của chúng ta đã hơn được 11 tuổi.
Buổi tối hôm đó, anh năm của ngài tình cờ lật quyển sách “Hiếu Kinh” mà ngài đang đọc ngay trên trang giấy có đánh dấu xem dở thì thấy có một tờ giấy tập trắng nhỏ kẹp bên trong, trên có ghi một bài thơ như sau:
NỔI LÒNG TU SĨ
Trong mơ biết mình tên TU SĨ.
Họ TRẦN niên kỷ khoảng năm mươi.
Xuất gia từ thuở mười ba tuổi.
Nhập tự tòng sư học Kệ Kinh.
Ba mươi năm lẻ say mùi đạo,
Lỡ một ngày kia phạm sát sinh.
Công quá một đời như bọt nước,
Thức giấc lệ buồn đẫm ướt mi.
Nhựt Thăng Tu Sĩ.
Mấy ngày sau đó, khi hai anh em nằm (ngủ) cạnh bên nhau cũng như thường lệ, anh năm của ngài có hỏi về nguyên do của bài thơ trên thì được ngài cho biết như sau: Có một đêm vào khoảng 3, 4 giờ sáng thì ngài nằm chiêm bao, mơ thấy mình đi trên con đường mòn nhỏ dẫn lên sườn đồi thì nghe sau lưng có tiếng ai gọi lớn rằng:
– Ê, Tu sĩ, Tu sĩ. Trần Tu sĩ chờ ta đi với.
Lúc đó ngài cũng không mấy gì để ý đến, vì không phải là tên của mình nên cứ mặc nhiên, lầm lủi bước đi vế phía trước mặt thì nghe cũng vẫn là tiếng gọi đó vang lên y như trước. Trong tâm ngài lấy làm ngạc nhiên và nghĩ rằng chẳng lẽ phía sau lưng mình còn có thêm một người nào khác nữa đi theo sao? liền quay đầu lại xem thử thì không thấy ai hết. Đang khi còn lấy làm lạ thì thấy từ phía xa xa ở dưới chân đồi có một người vừa chạy lên vừa lấy tay vẫy gọi mình bảo “chờ ta với”.
Thấy vậy nên ngài dừng lại chờ xem có chuyện gì không, một lúc sau thì người kia chạy lên đến nơi, đó là một lão ông khoảng chừng 7, 8 mươi tuổi, dáng người quắc thước, phong cách hiên ngang, nắm lấy tay ngài vừa cười vừa nói:
– Ê, Tu sĩ hèn lâu mới gặp lại nhà ngươi. Xem ngươi cũng không khác gì lúc xưa cho lắm.
Ngài lấy làm lạ, hỏi lão ông ấy rằng:
– Thưa cụ, chẳng hay cụ đang nói với ai vậy?
Lão ông ấy đáp:
– Thì ta đang nói chuyện với ngươi mà. Bộ ngươi quên ta và ngươi là ai sao?
Tu sĩ chính là ngươi đó.
Ngài nói:
– Thưa cụ, chắc cụ nhận lầm người rồi đó, cháu tên Nguyễn Nhựt Thăng chớ đâu phải tên Tu sĩ.
Lão ông nói:
– Vậy ngươi hãy xem kỹ lại mình rồi sẽ cùng ta nói chuyện tiếp.
Nghe lão ông bảo vậy, tuy trong lòng lấy làm lạ nhưng ngài cũng nghe theo, cúi đầu ngó xuống trước ngực thì thấy toàn thân của mình đã biến thành ra một người đàn ông khác lạ từ lúc nào rồi, người mới này khoảng 5 mươi, mình mặc áo nâu sòng, chân mang dép râu, đầu cạo trọc tóc, rõ ràng là hình tướng của một ông thầy tu nghèo nơi miền sơn cước.
Trong khi ngài còn ngẩn ngơ không hiểu vì sao bỗng nhiên mình lại hóa thành một người khác như vậy, thì lão ông lại vỗ tay cười ngất mà nói rằng:
– Quả là vui, quả là vui, hèn lâu mới gặp lại cố nhân. Nhưng mà này, ngươi đừng lấy làm lạ, để ta nói rõ cho ngươi hiểu. Đây là thân trong kiếp trước của ngươi đó. Nguyên trong kiếp trước ta cùng ngươi đồng tu tại đây. Ta họ Đồng, ngươi họ Trần, người trong vùng gọi là Trần Tu sĩ, ngươi xuất gia năm 13 tuổi và cùng ta ở tại ngôi chùa trên kia.
Nói đoạn nắm tay ngài dẫn lên trên đồi thì thấy nơi đó còn vết tích tường long, mái đổ của một ngôi cổ tự (chùa xưa) hoang tàn, khắp nơi cây cỏ mọc đầy, rêu phong cô tịch.
Lão ông ấy giải thích tiếp:
– Khi xưa ngươi cùng ta ở đây trên 30 năm, tu hành cũng khá. Sáng hôm đó ngươi có chuyện phải xuống đồi, trên đường đi vô tình phạm nhằm một vụ ngộ sát… Mấy năm sau ngươi bị bệnh rồi qua đời trong sự sầu buồn, hối hận… Bây giờ ngươi đã chuyển sang kiếp khác với thân xác và tên họ mới của kiếp này đây. Do nơi túc căn dẫn dắt nên khiến cho ngươi trong mơ nhớ lại cảnh cũ mà quay trở về tìm.
Ngài nghe vậy mới hỏi:
– Việc ấy đã bao lâu rồi và bây giờ đây ngài đang làm gì?
Lão ông thở dài nói:
– Trên 200 năm rồi, ngươi bây giờ thì như thế đó. Còn ta cũng chưa được siêu, vẫn nay ở nơi đây làm một người thổ địa coi sóc cuộc đất này.
Trong lúc ngài còn đang bùi ngùi, đi vòng quanh ngôi cổ tự xem lại cảnh xưa thì vấp phải một cục gạch té nhào.
Giựt mình tỉnh dậy thì trời gần sáng…
Do đó nên mới có ra bài thơ này như vậy.
Kế tiếp anh năm ngài hỏi vì sao mà cuối bài thơ lại ký tên là NHỰT THĂNG TU SĨ, thì ngài giải thích như sau:
– NHỰT THĂNG là tên của cha mẹ kiếp này ban cho nên phải quý trọng và đặt ở đầu để tượng trưng cho lòng kính thương cùng biết ơn hiện tiền phụ mẫu, còn TU SĨ là tên của kiếp tiền sanh. Sở dĩ ghép liền hai tên lại với nhau như thế là để hàm ý hai tên ấy vốn của một người, cũng như để nhắc nhở và nung chí cho mình luôn luôn nhớ rằng kiếp trước ta là một tu sĩ rồi thì kiếp này phải cố gắng lập chí tiến tu tiếp thêm chớ để cho phải bị mê trần.
(Và cũng vì thế nên từ đó về sau cho đến trước ngày đi tu, bài thơ nào của ngài đặt ra, phía cuối cũng đều ký tên là Nhựt Thăng Tu sĩ hết).
Trở lại bài thơ trên, ta nhận thấy tuy rằng về thơ và cách ghép vần thì cũng bình thường không mấy chi xuất sắc cho lắm, nhưng bởi vì nó được sáng tác ra từ nơi một “em bé quê” mới có 11 tuổi đầu chưa từng được ai dạy và học qua cách thức làm thơ cả, nhất là thơ “thất ngôn bát cú” một loại thơ rất khó làm thì có thể được gọi là lạ lùng, hiếm có và đáng cho ta cúi đầu khâm phục lắm.
Sự việc này cũng đủ để chứng tỏ rằng cái trí huệ “tiềm ẩn” trong con người của ngài thật là phi thường, nó chỉ chờ được cơ hội thuận tiện và đầy đủ là phát tiết ra ngoài mà thôi. Nơi đây ta có thể dùng một thí dụ để minh lại cái ý nghĩa này:
– Như trường hợp của một cái hồ đã chứa đầy nước ở trong rồi. Bây giờ chỉ có cần người nào đó đến mở vòi “robinet” một cái thôi là nước sẽ chảy ra ngoài để hữu dụng tức thời vậy.
(Đây cũng là một điều may mắn lớn cho ngài là không bị mai một đi cái công tu hành trong quá khứ như những người khác là hoàn toàn bị “Mê khi cách ấm, muội lúc ra thai” mà các tổ sư vẫn thường giảng giải và ghi trong sách vở).
Lại nữa ta nhận thấy qua cách thức của ngài trả lời với người anh về việc ghép lại hai tên của kiếp này và kiếp trước cùng với việc quý trọng tên của cha mẹ hiện tiền đặt cho mình thôi, điều đó cũng đủ để chứng tỏ rằng ngài là một con người “biết ơn và biết trả ơn”, biết “nhớ cội nguồn mà không vong bổn”. Đây chính là một cái hạnh rất cần phải có và không thể nào thiếu được của người sa môn trong Phật đạo vậy.
Còn về việc ngài chọn lấy bốn chữ “NHỰT THĂNG TU SĨ” để ký tên vào cuối mỗi bài thơ hầu nhắc nhở và “nung chí anh hùng” để nhớ lại tiền căn mà lập chí tiến tu cho khỏi bị mê trần, thì quả là một việc khiến cho chúng ta càng tăng thêm sự bội phục cố Hòa thượng của chúng ta hơn bao giờ hết!
Tại sao? Luận về việc này thì ta thấy, hễ là người phàm đời sanh nơi cõi thế thì ai cũng vậy, kể từ khi bắt đầu đi học, có được chúc ít đầu óc để suy nghĩ và phân biệt rồi thì cha mẹ cùng các thân quyến chung quanh nhắc nhở và “nung chí anh hùng” cho con cháu mình rằng:
– Con ơi, ráng học hành giỏi dắn, để sau này đi thi đỗ đạt, làm quan cho vinh hiển gia đình rồi cưới vợ đẹp, đẻ con xinh, nhà rộng cửa cao, bạc tiền dư dã, người hầu kẻ hạ, xuống ngựa lên xe… khỏi uổng phí đi cái kiếp con người…v.v…
Đó là cách thức của người thế gian dạy dỗ và nung chí cho con cháu của mình, từ xưa đến nay thảy đều y chang như vậy. Bởi vì ai nấy cũng đều nghĩ rằng đó là một việc dĩ nhiên không thể nào trái được.
Chớ có mấy ai nghĩ đến việc nhắc nhở, dạy dỗ và nung chí cho con cháu của mình biết rằng đời là bể khổ, lớn lên rồi phải nên học theo cách giải thoát, xuất gia của Tất Đạt Đa thái tử con của Tịnh phạn nơi vương thành Ca-tỳ-la-vệ ngày xưa đâu!
Bởi thế cho nên, Tổ Sư có bài thơ cảnh tỉnh rằng:
Công danh khoa bảng,
Riêng chiếm ngao đầu.
Vui mừng đắc ý buổi thanh thu.
Ấn vàng người tinh đẩu,
Danh đẹp thơm trường cửu.
Ối chà chà!
Bao nhiêu thanh thiếu những mong cầu.
Tóc xanh thành bạch thủ,
Khi tỉnh giấc hoàng lương,
Một tiếng cười khan đời mộng ảo!
Bởi thế nên đem,
Quý hiển công danh xóa sạch làu.
Liên Trì đại sư – Liên Tông Bát Tổ
(Liên Du – Thích Thiền Tâm dịch)
(Đến đây, Bảo Đăng tôi xin dừng lại một chút để lược ý của bài thơ (Siêu tuyệt” này cho quý độc giả hiểu thêm về lời dạy của tổ sư:
Đại khái ý thơ dạy rằng:
– Trên đời này, các thanh niên nam nữ khi lớn lên đi học rồi ai nấy cũng đều mang mểnh trong tâm mình một ý niệm là sau này ta sẽ đỗ cao (chiếm ngao đầu) – như đỗ trạng nguyên ngày xưa vậy – Kế đó vua sẽ phong ra làm quan to, và ban cho ta quyền cao, chức trọng cùng với một cái ấn vàng sáng rực, chói ngời, công danh lừng lẫy, khắp nơi ai cũng đều biết tiếng khen ta là một người trẻ tuổi tài cao mà cúi đầu bái phục … Hỏi ở trên đời này còn có việc nào hân hạnh hơn nữa chớ?
Nhưng các bậc thánh nhơn với cái trí tuệ chơn thật đều giác ngộ rằng tất cả duyên đời đều như do mộng, rồi ngó lại các hàng thanh thiếu chí nguyện chỉ có mong cầu (các duyên đời) như thế mà động lòng từ bi thương xót, phải buộc miệng than rằng:
– Ối chà chà! (Tựa như ối! than ôi vậy)
Bởi vì quý ngài thấy rõ rằng:
– Tóc xanh rồi cũng biến thành đầu bạc (tóc xanh thành bạch thủ) – Công danh khoa bảng, phú quý cho mấy kết lại rồi cũng là không, như thư sinh kia khi tỉnh giấc Hoàng lương rồi, cười khan mấy tiếng mà than rằng “Đời là mộng ảo” rồi đi vào núi ẩn tu.
Cho nên cuối bài thơ, tổ sư kết lại rằng:
Bởi thế nên đem,
Quý hiển công danh xóa sạch làu.
Ba chữ “xóa sạch làu” đây có nghĩa là xóa cho nó sạch bách đi đừng để cho còn chút tàn tích nào lưu lại trong tâm của mình hết.
Vả lại cổ thi cũng có thơ rằng:
– Quân bất kiến Hoàng hà chi thủy?
Thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.
– Quân bất kiến,
Cao đường minh cảnh bi bạch phát?
Triêu như thanh ty,
Mộ như tuyết!
Nghĩa là:
– Chàng ơi! chàng có thấy nước của con sông Hoàng hà (bên Trung Hoa) từ trên lưng chừng trời cao đổ xuống, rồi theo dòng Trường Giang cuồn cuộn bôn ba ra ngoài bể cả, mà không bao giờ quay trở lại nguồn xưa chăng?
– Chàng ơi! chàng có thấy hai đấng sanh thành (Cao đường) của chàng tuy rằng nhà cao cửa rộng như thế nhưng vẫn sầu buồn vì mái tóc mới ngày nào xanh tươi mà giờ đây đã bạc màu sương tuyết rồi không?
Tạm dịch:
Chàng có thấy sông Hoàng hà,
Con sông vĩ đại nước sa lưng trời.
Theo dòng cuồn cuộn ra khơi,
Ngược về đồi núi có đời nào đâu!
Chàng có thấy tóc bạc đầu,
Nhà cao, gương sáng âu sầu vì ai?
Ban mai tóc hỡi xanh dài,
Chiều về trắng xóa như đài tuyết sương!
Mà giựt mình thức tỉnh hay không?
Tuy nhiên ta phải bình tâm mà nhận định rằng không phải bất cứ một ai ở trên cõi đời này cũng đều tỉnh mộng một cách dễ dàng trước mọi duyên đời cám dỗ, kéo lôi như thế cả đâu, ngoại trừ trường hợp của một số rất ít người đại căn, đại trí, đếm trên đầu ngón tay mới có thể được mà thôi.
Như cố Hòa thượng Đại Ninh của chúng ta đây là một, và cái sự cảnh tỉnh đó nó bắt đầu từ khi ngài còn là một đồng nhi nhỏ tuổi, rồi cứ như thế mà tuần tự tăng trưởng theo ngày tháng trôi qua cùng với số tuổi đời tuổi đạo càng thêm chồng chất…. Cho đến lúc an lành nhắm mắt A DI ĐÀ Phật về miền An lạc trường xuân.
***
KỶ NIỆM VUI CỦA THUỞ ẤU THỜI
Không phải cố Hòa thượng của chúng ta trong thuở ấu thời tối ngày sáng đêm chỉ biết lo có việc nghiên cứu giáo lý, kinh sách hay là lúc nào cũng nghiên cẩn, trầm tịch như một “ông sư con” thôi đâu, nếu như vậy thì cái nhà thành ra cái chùa rồi! Buồn chết đi được, chịu sao cho nổi!
Bởi vì hễ sống ở trên cõi đời này thì dầu sao đi nữa mình cũng phải có một đôi lúc nào đó hả miệng, nhăn răng ra mà cười rộ lên cho cuộc đời có được đôi chút hương vị vui tươi, mát mẻ chớ, nếu không thì chắc chắn là sẽ sớm thành người “già non, chín háp” hay trở nên một ông cụ non, thì anh em chung quanh làm sao chịu thấu!
Trong quyển “Tây liên bút lục” có ghi lại một vài kỷ niệm vui của cố Hòa thượng thuở còn thơ ấu mà Bảo Đăng tôi sẽ lần lượt trích thuật hầu quý vị, để chúng ta cùng chung với Sư Ông nở hoa ra các nụ cười cho đời vui vẻ, trẻ trung, chớ nếu tối ngày cứ chắp tay niệm “Nam mô Phật” hay “Bạch Hòa thượng” hoài thì chỉ còn có nước “nhập thất, bế quan” vô thời hạn như Đại Đức bổn sư Thích Hải Quang mà thôi!
Khoảng năm cố Hòa thượng được 10 tuổi (1935), có một gánh “hát bội pha hồ quảng” ghé qua xã Bình Xuân, đóng đô tại đình làng để trình diễn và cống hiến nghệ thuật sân khấu cho các khán giả địa phương trên đường viễn du, lưu diễn khắp nơi của họ.
(Vào những thập niên này thì có năm ba đoàn hát nhỏ cỡ hạng B, hạng C, vì không có được những đào, kép nổi danh và cũng không có nhiều tiền để mướn rạp hát thường trực, nên phải lên đường đi lưu diễn, nay chỗ này, mai chỗ khác, đa số là trình diễn ở những vùng làng quê xa xôi tỉnh thị nơi mà người dân địa phương chỉ chuyên chú chăm lo khoai sắn, ruộng vườn, ít bao giờ có dịp được đi xem hát xướng.
Vì vậy mà lâu lâu, năm thuở mười thì, cứ mỗi lần có đoàn hát nào ghé qua trình diễn thì bà con mừng lắm, ủng hộ hết mình, khen dồi nức nở, đôi khi còn thưởng thêm tiền nữa, chớ ít khi nào trề nhúng, khen chê hay dở như khán giả nơi chốn thị thành.
Tôi đã được nghe một số quý cụ xưa ở quê kể lại là mỗi lần có được một đoàn hát về trình diễn như thế thì cả làng xã đều rộn rịp, tươi vui hẳn lên. Cứ khoảng chiều về, cơm nước xong xuôi rồi, kể lại nghe tiếng trống của đoàn hát đánh lên đùng đùng như thúc giục, là ai nấy lớn, bé, trẻ, già chi cũng đều nô nức, phấn khởi. Trẻ thì lo sửa soạn áo quần, già thì lo têm trầu, vấn thuốc mang theo (để ăn và để hút khi xem hát), gần lộ thì đi bộ, xa nữa như ở trong sông rạch thì chèo ghe, tất cả đều nhắm hướng đình tiền trực chỉ.
Đến khi mặt trời lặn rồi thì nơi sân đình làng đèn “măng sông” năm sáu ngọn đốt lên sáng rực, khán giả tụ tập về đông nghẹt để mua vé vào cửa, vé cũng có hạng nhất, nhì, ba và hạng cá kèo (hạng này chỉ đứng coi thôi chớ không có ghề ngồi).
Sân khấu thì đặt trên một bục gỗ cao ở phía trong đình, mặt hướng ra ngoài sân rộng, chung quanh có phên tre “cà tăng” làm vách bao bọc kín mít, có lính làng canh gác đàng hoàng không cho xem cọp (tức là xem lậu không mua vé).
Thường thì khoảng 7 giờ tối là tuồng hát bắt đầu mở màn trình diễn)
Buổi tối hôm đó đoàn hát bội pha hồ quảng “TRĂNG THU” trình diễn hầu chư vị khán giả thân mến của thị xã Bình Xuân vở tuồng tích nhan đề “PHẠM CÔNG, CÚC HOA” rất là hay ho, đặc sắc. Tuồng hát này đã được diễn đi, diễn lại cả 10 ngày nay rồi mà khán giả vẫn còn đông nghẹt và yêu cầu “tái nạm” ủa quên tái diễn nữa.
Nguyên vở hát Phạm Công, Cúc Hoa này có một cốt chuyện rất là cảm động, trong đó đầy đủ hết mọi tình tiết éo le cùng với hiếu, trung, nhân nghĩa v.v… mà từ lâu đã được hầu hết mọi người (nhất là dân chúng ở miền quê) ái mộ, đọc xem và biết đến.
Chính ngay trong gia đình của cố Hòa thượng cũng có một quyển truyện này, người nào biết đọc cũng đều có xem qua hết và đặc biệt cụ bà là ưa thích nhất, mỗi khi muốn nghe thì cụ bà thường “ra lịnh” cho cố Hòa thượng hoặc đôi khi là anh năm của ngài đọc lớn lên trong khi đó thì cụ bà nằm tréo chân trên võng, nhắm mắt, lim dim, chắc lưỡi hít hà, ngậm ngùi thương cảm mà thưởng thức cốt truyện.
Vì vậy nên hôm nay cố Hòa thượng của chúng ta cùng với các anh chị em và gia đình có ý định đi xem một lần cho biết để coi các đào, kép diễn xuất như thế nào, có hay và đúng theo trong truyện sách hay không? Do đó cho nên chiều nay cả gia đình ngài cũng như một số các bà con khác trong xóm, sau khi cơm nước và sửa soạn mọi thứ xong xuôi rồi, đồng ra khỏi nhà, nhắm hướng đình làng tiến bước.
Dọc đường nghe vài người nói thì vỡ hát này cảm động lắm, ai nấy xem qua rồi cũng đều thương cảm hết, nhất là quý bà, quý cô thì khóc ròng mùi mẫn, lấy tay quẹt nước mắt liền liền và hỉ mũi nghe rồn rột.
Đại khái thì tuồng hát này diễn lại câu chuyện của Tiểu thư Cúc Hoa lấy chồng tên Phạm Công, hai người yêu thướng nhau khắng khít lắm, có hai đứa con, gái lớn tên Nghi Xuân, trai nhỏ tên Tấn Lực, tuổi còn thơ ấu. Mẹ chồng thì bạc ác, khắc nghiệt không thương con dâu, hành hạ đủ điều … Kế đến Cúc Hoa tiểu thư lâm bệnh qua đời, Phạm Công gà trống nuôi con, nhưng hai con còn nhỏ quá cứ theo cha hỏi má đâu hoài làm cho Phạm Công càng thêm nhớ vợ hiền mà mang lòng sầu khổ đớn đau.
Cứ mỗi khi chiều về thì chàng dắt hai con ra ngoài mộ của vợ ngồi than thở, xót xa, ngậm ngùi tưởng nhớ … Để tăng thêm phần cảm động cho khán giả nên đạo diễn bối trí phong cảnh của đoạn hát này buồn một cách đặc biệt lắm như là: gió thu heo hắt thổi lá vàng rơi lả tả trên nấm mồ đầy cỏ úa, rêu phong trong buổi chiều tà, Phạm Công cùng với hai con ngồi bên đầu mả, kẻ kêu em hỡi, người gọi mẹ ơi về với con, chúng con nhớ mẹ lắm v.v…
Mà muốn có lá vàng rơi lả tả như vậy thì đạo diễn phải cho người bưng một thúng lá vàng leo lên trần nhà ngay chổ nấm mộ, chờ khi nào ở dưới này Phạm Công thốt lời than thở thì hốt vài ba nắm lá vàng khô từ từ rải xuống làm y như lá thu đang rơi trong gió chiều vậy, thêm vào đó thì đèn màu trên sân khấu phựt lên ánh sáng mờ ảo của buổi chiều tà… Hỡi ôi! Cái bối cảnh thảm sầu như vậy thì hỏi khán giả nào ai mà không ngậm ngùi sa nước mắt chớ?
Có lẽ hôm đó người phụ trách phần việc leo lên nóc nhà rải “lá vàng rơi” quên lễ tổ, hay là bị tổ trác gì đó không biết, mà nhè nhằm ngay lúc đoạn hát này đang mùi mẫn, khán giả ai nấy cũng đều động lòng sa nước mắt thương cảm hết thì y ta bỗng nhiên bị trợt chân té nhào xuống sân khấu nghe một cái rầm, lăn cù đèo, lá vàng đổ đống, văng ra tung tóe, làm cho ba cha con Phạm Công kẻ đang khóc vợ, người đang khóc mẹ giựt mình, hoảng hồn đứng dậy, dắt tay nhau chạy tuốt luốt (vào hiện trường), còn y ta thì bị trặc mắc cá chân đứng lên không được, nằm trên sân khấu la “chời đất ơi, chết cha ngộ dồi” inh ỏi.
Báo hại cho bà con khán giả, trong đó có Hòa thượng của chúng ta cùng với gia đình ôm bụng cười bò lăn ra đất. Cái giai thoại khôi hài đặc biệt này, trong bút lục, anh năm của ngài ghi lại như sau:
– … Chưa bao giờ mình thấy chú THĂNG nó cười vui vẻ đến đổi chảy nước mắt, lăn cù ra đất như vậy làm cho mình cũng vui lây …
Riêng Bảo Đăng tôi khi đọc quyển bút lục đến đoạn này cũng ôm bụng cười lăn thiếu điều thở không muốn kịp … chẳng hay quý vị như thế nào?
Đây là một chuyện.
Đến đây, trước khi bước qua một chương khác, Bảo Đăng tôi lại xin kể tiếp cho quý vị đọc giả, Phật tử nghe thêm một kỷ niệm vui khác của cố Hòa thượng chúng ta.
Lại thêm một lần nữa vào năm cố Hòa thượng được 12 tuổi (1937), lúc đó cũng có một đoàn hát ghé ngang qua chợ Bình Xuân sau dịp Tết nguyên đán để trình diễn hầu giúp vui đầu năm cho bà con sở tại.
(Ở miền quê, thông thường thì vào khoảng gần cuối năm – tức là trước Tết nguyên đán – các nông gia đã thu hoạch xong các nông vụ, hoa màu và đem lúa cất vào kho chứa để chuẩn bị cho một cái Tết an vui nhàn nhã sắp đến dĩ nhiên là nếu năm đó trúng được mùa lúa).
Sau khi qua Tết rồi thì họ nghỉ “xả hơi” thêm một tháng nữa – tức là suốt tháng giêng âm lịch – sau đó mới bắt đầu lại các nông tác thường lệ.
Có thơ rằng:
Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà.
Tháng tư thì đậu đã già,
v.v…
Và cũng vì như thế cho nên ở lành Bình Xuân, nơi chôn nhau, cắt rún của cố Hòa thượng chúng ta, mọi người cũng theo cái thông lệ của ông cha để lại đó mà nghỉ “xả hơi” suốt tháng Giêng của Tết nguyên đán sau một năm dài ruộng nương gian nan, mỏi mệt.
Trong một tháng nghỉ đó, thường thì gia đình đoàn tụ và thăm viếng lẫn nhau, thí dụ như con gái đã lập gia đình rồi thì cùng chồng và cháu ngoại về thăm, con trai thì cùng vợ và cháu nội về viếng …
Nhưng mà trong suốt cái tháng giêng “ăn chơi” đó, thì cái điều mà người dân lành nơi miền quê mong muốn cùng ao ước nhất là được đi xem hát, và nếu như có một gánh hát hưu diễn nào về hát nhằm vào thời gian này thì kể như là “ăn chắc” và hốt bạc vì sẽ được bà con khán giả tận tình ủng hộ).
Tháng giêng của Tết năm đó (1937) làng Bình Xuân lại được thêm một năm vui khác nữa sau cái vui may mắn trúng mùa lúa của họ là có một đoàn “hát bộ hồ quảng” ghé ngang qua xã nhà trình diễn nghệ thuật để hầu “quý khán giả” sở tại liên tiếp hơn nửa tháng của buổi đầu xuân này.
Không cần phải nói nhiều thì quý đọc giả cũng biết là đoàn hát được toàn thể dân chúng trong làng ủng hộ nồng nhiệt. Suốt hơn hai tuần lễ này, đoàn hát tái diễn đến hai lần, vở hát tuồng tích tựa đề là “Tôn Tẩn hạ san” (Tôn Tẩn xuống núi).
(Hồi xưa, thường thì một vở hát thuộc loại tuồng tích như vậy có khi kéo dài đến hơn cả tuần, tức là tối hôm nay diễn một đoạn rồi tạm ngưng, tối mai diễn đoạn kế tiếp v.v… cho đến khi nào vở hát kết thúc mới thôi, các khán giả mê tuồng, mê hát, mê ca diễn, mê đào kép … đêm nào cũng mua vé để xem tiếp cho đến hồi kết cuộc. Nếu như gặp nhằm tuồng hát nào hay, đào kép đẹp và ca ngâm xuất sắc thì có khi khán giả sẽ yêu cầu tái diễn thêm).
Năm đó vở tuồng “Tôn Tẩn hạ san” này đạt đủ các tiêu chuẩn trên nên được yêu cầu tái diễn, vậy mà đêm nào khán giả cũng đông, chật hết cả rạp.
Riêng về gia đình của cố Hòa thượng, thì ông bà cụ thân sinh và một số chị em của ngài cũng đã có đi xem vở tuồng này trong lần diễn đợt đầu rồi, kỳ tái diễn này thì ông bà cụ cho phép các con ai chưa được xem qua thì đi, nhằm tới phiên cố Hòa thượng của chúng ta và anh năm của ngài được phép làm khán giả.
Đại khái thì vở tuồng mà ai cũng khen hay hết này diễn lại sự tích xưa, vào thời Đông Châu liệt quốc lúc vua Tần Thủy Hoàng gôm thâu sáu nước … đang đánh chiếm tới nước TỀ, vì tình trạng nguy ngập nên vua TỀ quốc cho quân sư lên núi THIÊN THAI cầu Á phụ (cha nuôi) là Nam Phụng Vương “Tôn Tẩn lão tổ” giáng phàm cứu giúp.
Vở hát này có nhiều tình tiết bi đát lắm, đặc biệt nhất là hai chữ TRUNG – HIẾU của Nho giáo được đạo diễn khai thác triệt để cho nên vở tuồng diễn rất hay và kéo dài đến 4, 5 ngày mới hết làm cho khán giả đã phải nhiều lần sụt sùi thương cảm.
Trở lại việc hai anh em của cố Hòa thượng chúng ta xem vở hát này đến đêm nay là đêm thứ tư, vở tuồng sẽ diễn đến một đoạn rất đặc biệt là “Tôn Tẩn lão tổ” hạ san – Đây là phần hay nhất mà khán giả chờ đợi và vỗ tay kịch liệt hơn cả vì ai cũng thích thấy Tôn Tẩn tiên ông bay trên trời cao và từ từ giáng hạ xuống sân khấu trong dáng điệu “tiên phong tạo cốt”, tay cầm gậy báu, lưng giắt cờ tiên, mình chiếu hào quang sáng rực.
Để hoàn mãn được đoạn hát này thì đạo diễn phải cho người kép thủ vai Tôn Tẩn cột một sợi dây luộc nhỏ ngang eo lưng, rồi cho thêm một người phụ khác đứng trên kèo nhà, kéo sợi dây có buộc Tôn Tẩn đó quay vòng quanh sân khấu 3, 4 lượt, ban đầu cao rồi từ từ hạ thấp dần xuống khi nào chân của Tôn Tẩn chạm xuống sân khấu là xong phần trách nhiệm của y.
Còn người thủ vai Tôn Tẩn khi đã xuống đến sân khấu rồi thì phải lẹ tay mở sợi dây buộc quanh lưng của mình ra (vì đèn mờ cho nên khán giả không thấy sợi dây). Đó là xong cái việc đằng vân giáng hạ – tức là cởi mây hạ xuống.
Kế đến là việc làm sao cho thân hình của Tôn Tẩn lão tổ chiếu ra hào quang chớp nháng thì đạo diễn cho quấn dây điện chung quanh mình của người kép thủ vai này (đương nhiên là bên trong phải có mặc một lớp áo lót bằng nhựa để cách điện). Trong khi còn đang bay vòng vòng ở trên thì người phụ trách ánh sáng tắt bớt đèn đi cho sân khấu trở nên mờ ảo, đồng thời y ta cũng mở công tắc điện liên hệ lên làm cho dây điện quấn quanh mình của Tôn Tẩn lão tổ xẹt ra nhiều tia hào quang sáng chớp chớp như pháo bông vậy.
Lần đầu tiên thì đoạn hát này diễn ra rất hay và suông sẻ, nhưng lần này và đặc biệt là đêm nay có lẽ vì bị trục trặc kỹ thuật khi quấn dây điện, hay là quên bái tổ trước khi hát cho nên bị tổ trác không chừng, vì vậy mà đúng vào lúc Tôn Tẩn lão tổ đang bay vù vù quanh sân khấu chuẩn bị giáng hạ thì dây điện bị “mát” đi cho nên Tôn Tẩn tiên ông bị “điện giựt”, y ta vừa bay vừa la lên thất thanh rằng:
– Ối! cha mẹ ơi, trời đất ơi, điện giựt chết tôi,… rồi té nhào xuống sân khấu vừa la làng vừa bò lết quính quíu khiến cho người cầm dây đứng trên kèo nhà bị trợt chân té luôn xuống một cái đùng trúng ngay vào lúc Tôn Tẩn” đang lồm cồm đứng dậy khiến cho hai người ôm nhau lăn nhào đùn cục trên sân khấu, báo hại các khán giả trong đó có cố Hòa thượng của chúng ta ôm bụng cười lăn chiêng, nghiêng ngã.
Và đây là hai cái kỷ niệm vui, đáng nhớ nhất trong cuộc đời thơ ấu của cố Hòa thượng, mà mãi về sau này, chí đến khi ngài đã lớn tuổi rồi, mỗi khi nhắc lại chuyện xưa ngài đều nở ra các nụ cười tươi vui thoải mái – Hai người thân nghe cố Hòa thượng kể lại chuyện này cũng thấy ngài cười tươi vui vẻ lúc còn sanh tiền là Ni sư Thích nữ Thanh Nguyệt (trưởng tử) và ĐĐ. bổn sư Thích Hải Quang (thị giả, cháu ruột) vào thời gian cách đây gần khoảng 20 năm về trước).
III. GIAI ĐOẠN XUẤT DƯƠNG (Lên tỉnh học)
Năm cố Hòa thượng được 12 tuổi (cuối năm 1937) thì ngài đã hoàn mãn xong chương trình Tiểu học (lớp nhứt) ở trường làng. Vì nơi đây không còn có lớp để tiếp tục cho chương trình Trung học, nên hễ ai muốn học thêm thì phải lên trên tỉnh lỵ mới có được đầy đủ phương tiện.
Riêng cố Hòa thượng, ban đầu ngài cũng không có ý định muốn đi học tiếp vì các lẽ: gia đình nghèo không mấy dư dả cho lắm, phần thêm anh chị em đông vả lại cũng không có người quen trên tỉnh thị để ở nhờ (trọ học).
Hơn nữa, như đã nói ở phần đầu, ngài là một người thông hiểu đạo lý rất sớm, vả lại cũng bởi có căn tu sâu dầy nên tuy tuổi còn nhỏ mà tánh tình đã sớm biết suy xét sâu xa như một người lớn, thân tuy còn tại gia mà tâm như đã gởi nơi chốn am thiền, chí nguyện của ngài là chí nguyện xuất trần chớ không phải là chí nguyện của người nơi bể tục. Vì thế cho nên trong tâm ngài không có một ý niệm gì về các việc tranh danh, đoạt lợi cõi đời này cả.
Sự việc này được chứng minh nhân dịp đi đưa đám ma của một người quen chòm xóm mà trong quyển bút lục anh năm của ngài có chép lại một bài thơ sau đây:
NỔI LÒNG TU SĨ
Hôm qua nhìn thấy cảnh vô thường,
Tang quyến khóc buồn dạ mấy thương.
Tu sĩ nghe lòng dâng đau xót,
Ý niệm thoát trần mãi vấn vương.
***
Ra trước bàn thờ thắp nén hương,
Cúng dường Phật tổ chốn Tây Phương.
Tu sĩ biết đời ai tránh khỏi,
Vùi thân huyệt lạnh cạnh bên đường!
Nhựt Thăng Tu sĩ 1937.
(Đám ma bác tư)
Qua bài thơ này ta nhận thấy rõ ràng bổn ý của ngài là muốn đi tu (thoát trần) chớ không thích luyến đời như thường tình nhân thế. Nhưng mà đối với một con người đặc biệt khác thường như ngài thì đương nhiên là ngài phải cân phân kỹ lưỡng trước khi quyết định một việc gì có tánh cách quan trọng, nhất là cái việc “chung thân đại sự“ (tu tập) của mình.
Là một “ông đồ nho con” am tường điển chương, đạo lý, qua các bộ sách Nho văn của thân phụ, thì ngài cũng đã đọc biết trong quyển Kinh Thi của Khổng giáo có bài thơ rằng:
– Phụ hề sanh ngã,
– Mẫu hề cúc ngã, phủ ngã, súc ngã, dưỡng ngã, dục ngã, cố ngã, phục ngã, xuất nhập phúc ngã.
– Dục báo chi đức,
– Hiệu thiên võng cực.
nghĩa là:
– Cha sanh ra ta,
– Mẹ cho ta bú mớm, ẳm bồng, nuôi nấng, giữ gìn, dạy dỗ, trông nôm, săn sóc, ra vào bồng ẩm ta.
– Muốn báo công đức đó,
– Khó như muốn vói tay đụng đến trời cao vậy.
Như thế thì qua bài thơ này ta thấy cha mẹ đối với con có đến 9 chữ “Cù lao” (Tức là cần cù, lao nhọc) để nuôi con, và đương nhiên là cố Hòa thượng ngài cũng biết rõ như vậy.
Chín chữ ấy là:
– Cha SANH (có một)
– Mẹ DƯỠNG (có 8 điều): Cúc (bú mớm), Phủ (bồng ẳm), Súc (nuôi nấng), Dưỡng (giữ gìn), Dục (dạy dỗ), Cố (trông nom), Phục (săn sóc), Xuất nhập phúc (ra vào bồng ẳm để con trên bụng).
Vậy thì:
Một công của cha sanh.
Tám điều của mẹ dưỡng,
Chín cái “Đức cù lao” cao thâm này kẻ làm con biết lấy chi báo đáp cho vừa.
Lại nữa chắc chắn là cố Hòa thượng của chúng ta cũng đã sớm biết câu rằng:
Ai ai phụ mẫu,
Sanh dưỡng cù lao.
Dục báo thâm ân,
Hiệu thiên võng cực.
nghĩa là:
Nghĩ thương đến cha mẹ,
Ơn sanh dưỡng nhọc nhằn
Muốn báo trọn thâm ân,
Trời cao kia khó vói.
Hoặc như:
Ơn cha mẹ dưỡng sanh khó nhọc,
Đức Cù lao chín chữ bao la.
Ví như tay vói trời xa,
Báo đền cha mẹ dễ mà được ư!
Vì những lý do như vậy cho nên một trang nho giả trẻ tuổi như cố Hòa thượng của chúng ta bắt buộc phải để tâm suy nghĩ lại cho thật chính chắn về vấn đề muốn “thoát trần” sớm của mình. Bởi ngoài cái công ơn sanh dưỡng cao thâm rất khó đền, khó báo kia ra, mà hiện tại đây thân mẫu của ngài do nơi nhiều lần sanh nở (cho một đàn con 13 đứa) nên sức khỏe càng ngày càng thêm mỏi mòn, thân thể suy hao, tàn tạ. Hơn nữa vì gia đình ở chốn ruộng vườn xa xôi tỉnh thị, ăn uống thiếu thốn dinh dưỡng, bệnh hoạn thiếu thốn thuốc men, nên đã từ lâu Cụ bà vương mang nhiều bệnh tật trầm kha, dây dưa khó trị.
Qua nhiều ngày đêm suy nghĩ, đắn đo, lòng hiếu thảo của một người con hiểu điều đạo lý đã khiến cho trong tâm của ngài nảy sinh ra một ý niệm là đi học Đông y (tức là thuốc Bắc – Hồi xưa thì ngành Đông y và thuốc Bắc phổ cập trong dân chúng nhiều hơn Tây y) để trị lành bệnh cho mẹ trước, hầu lấy đó mà đền đáp lại phần nào thâm ân dưỡng sanh cao rộng của đấng mẫu từ.
Ngài đem ý định nay trình bày với thân phụ để xin lên tỉnh học và được cụ ông chấp thuận. Vì bản quận Hòa Đồng nằm trong tỉnh lỵ Gò Công, nên ban đầu cụ ông định đưa ngài lên Gò Công để học và tạm trú nơi nhà của một người quen làm nghề buôn bán tôm cá ngoài chợ.
Nghe thân phụ nói lại là sẽ ở trọ nơi nhà của một người làm nghề buôn tôm bán cá tức là buôn bán sanh mạng, máu thịt của chúng sanh để sống – thì ngài không được vui và có ý bần dùng (chậm trễ), ba bốn ngày trôi qua mà cũng chưa quyết định được chi hết nên trong dạ lo buồn.
Bỗng dưng sáng sớm hôm đó ngài nói với anh năm của ngài là ngài sẽ lên Mỹ Tho để học thay vì đi xuống Gò Công như đã dự tính.
Anh năm ngài nói:
– Chú muốn học ở Mỹ Tho thì cũng được nhưng mà cậu đâu có quen ai ở trên đó.
Ngài mạnh dạn nói:
– Cậu không có người quen, nhưng tôi có, chẳng những có người quen không thôi mà tôi còn có nhà sẵn để ở trọ nữa.
Anh năm ngài nghe xong lấy làm lạ tưởng ngài nói đùa, vì từ bé đến giờ ngài chưa hề cất chân đi ra khỏi làng một bước thì làm gì có người quen và nhà ở sẵn trên chợ Mỹ Tho, nhưng rồi thấy vẻ mặt của ngài nghiêm trang, đứng đắn, vả lại anh năm của ngài cũng biết rằng người em trai “đặc biệt” này ít có bao giờ nói chơi (nói bá láp) lắm nên mới hỏi duyên cớ, thì ngài kể chuyện như sau:
– Hồi khuya này đang ngủ thì nghe có tiếng gõ cửa, thì tôi mới chạy ra mở thì thấy có một vị lão tăng mặc áo vàng đứng bên ngoài. Tôi mừng lắm lật đật cúi lạy rước vào nhà mời ngồi trên ghế và dâng nước trà cho ngài uống.
Hòa thượng kêu tôi tới gần lấy tay vò đầu tôi 3 cái rồi nói:
– Con giỏi lắm và lúc nào cũng ngoan ngoãn dễ dạy.
Tôi mới quỳ xuống thưa rằng:
– Bạch đại sư ngài là ai và từ nơi chùa nào mà đến nay thăm con vậy?
Hoà thượng đáp:
– Ta chính là bổn sư của con từ chùa cũ, ở phương xa kia, nay vì việc tu học của con mà ta đến nay.
Tôi nghe nói vậy thì mừng lắm vội thưa:
– Bạch Hòa thượng bổn sư xin từ bi dắt con đi tu vì lòng con ao ước đã từ lâu rồi.
Hòa thượng nói:
– Tố hảo lắm, việc phải như vậy. Nhưng bây giờ chuyện đi tu ấy hãy tạm gác lại một bên, lo trị cho mẹ con lành bệnh trước đã, khi nào xong rồi ta sẽ tiếp độ cho.
Nói xong đại sư bước xuống ghế đi ra cửa, tôi lật đật chạy theo thì ngài lấy trong túi ra một bao thư màu đỏ đưa cho tôi và nói:
– Mọi việc thảy đều sẵn đủ. Con hãy y theo (lời dặn) trong thơ đó mà tiến hành thì sẽ được như ý chớ có lo buồn chi.
Nói xong rồi ngài bước ra ngoài đi mất.
Tôi mới mở bao thư ra coi thì thấy bên trong có một tờ giấy nhỏ ghi bốn câu thơ rằng:
Đây nào có phải mấy ai xa,
Tu sĩ bổn sư chính thiệt ta.
Nhắc Đó chớ quên lời PHẬT ẤN,
Vĩnh tự Tràng kia vốn thiệt nhà.
Tôi xem xong vừa đi vừa suy nghĩ thì vấp phải ngạch cửa té nhào thức dậy, thì ra là chiêm báo chớ không phải thiệt. Vậy anh nghe và có biết ý của bốn câu thơ này ra sao chăng?
Anh năm ngài nói:
– Ba câu trên thì dễ hiểu ví ý nó đã rõ ràng ra như vậy rồi. Còn câu thứ tư, ba chữ đầu thì chữ Tự là chùa Vĩnh Tự Tràng là Chùa Vĩnh Tràng. Vậy là sao, cái gì là Vĩnh Chùa Tràng, hay là chùa Vĩnh Tràng chăng?
Ngài khen rằng:
– Anh cũng khá đó, Vĩnh Tự Tràng tức là Vĩnh Tràng Tự, là Chùa Vĩnh Tràng của Hòa thượng PHẬT ẤN ở Mỹ Tho đó. Anh còn nhớ năm rồi Hòa thượng Phật Ấn đã nói gì không?
Anh năm ngài đáp:
– Tôi còn nhớ chớ và tôi cũng có ghi chuyện ấy vào trong sổ tay nữa.
(Đến nay Bảo đăng tôi xin nhắc lại để quý đọc giả nhớ lại lời của Hòa Thượng Phật Ấn hứa năm xưa với thân phụ của ngài nơi ruộng lúa rằng:
– Tôi là Hòa thượng Phật Ấn trụ trì chùa Vĩnh Tràng tại chợ Mỹ Tho nếu như về sau ông muốn cho đứa bé này đi tu thì hãy dẫn nó đến gặp tôi ở đấy”)
Quả thật là cái chuyện đi tu học của ngài đã được chư Phật sắp đặt sẵn rồi, chớ không phải là hên xui, may rủi đâu, cho nên vị lão tăng tự xưng là bổn sư của ngài trong giấc chiêm bao có nói:
– “Mọi việc thảy đều sẵn đủ – Con hãy y theo đó mà làm thì sẽ được như ý”
Đại khái thì bài thơ này nói:
– “Ta nay không phải là người xa lạ đâu mà chính thật là bổn sư của ngươi đó, nay ta đến để nhắc cho ngươi nhớ rằng:
– Chớ có quên lời hứa của PHẬT ẤN Hòa thượng năm xưa, chùa Vĩnh Tràng kia thiệt là nhà của ngươi đó. (Hãy đến đấy ở chớ đừng đi Gò Công).
– Sau khi nhắc lại việc của Hòa thượng PHẬT ẤN hứa năm xưa xong. Cố Hòa thượng của chúng ta cười vui và có vẻ phấn khởi lắm, ngài ứng khẩu đọc liền 4 câu thơ sau nay:
Đêm qua mơ thấy bổn sư ta,
Đến bảo nay con chớ xót xa.
Phật Ấn năm xưa lời có dặn,
Vĩnh Tràng Tự kia vốn thiệt nhà,
Sau đó ngài mời thưa trình lên thân phụ sự việc trên và xin được lên Mỹ Tho để học thay vì đi xuống Gò Công. Cụ ông nghe nhắc, nhớ lại chuyện năm xưa nơi ruộng lúa nên cũng mừng và chấp nhận quyết định chọn ngày khởi hành,nhắm hướng Mỹ Tho và chùa Vĩnh Tràng trực chỉ.
Trong quyển “Nhựt Thăng tu sĩ di cảo” có ghi lại một bài thơ về việc lên tỉnh học y dược của ngài như sau:
Chẳng vì phú quý lẫn cao sang,
Cám cảnh mẹ hiền bệnh khổ mang.
Quyết tâm lên tỉnh tìm phương thuốc,
Dứt bệnh mẫu từ dạ mới an.
Việc “thoát trần” kia nay tạm hoãn,
Nghiên tầm y dược cứu lầm than.
Chắp tay hướng đấng từ bi lễ,
Độ trì thân mẫu sớm an khang.
Nhựt Thăng Tu sĩ
(Ngày lên tỉnh học)
Sau khi cùng với thân phụ lên đến chợ Mỹ Tho, tìm gặp được Hòa thượng PHẬT ẤN nơi chùa Vĩnh Tràng, đảnh lễ và trình lên cho ngài xong hết mọi việc như vậy rồi, Hòa thượng nghe qua lấy làm hoan hỉ, liền chấp nhận cho ngài ở học và còn hứa thêm là sẽ tận tình giúp đỡ cho cố Hòa thượng của chúng ta sớm thành đạt được những điều mong muốn.
Từ đó trở đi, ngài ở luôn nơi chùa Vĩnh Tràng để tiếp tục việc học của mình. (Kể từ nay, cuộc đời của ngài đã bắt đầu bước vào trong một khúc quanh mới, cực kỳ quan trọng cho con đường đạo học và xuất gia sau này – bởi vì hai cái PHẬT ẤN [Hai cái Phật Ấn: một là của Phật đóng vào trán, hai là Hòa thượng bổn sư Thích Phật Ấn] của ngài nay đã trùng hợp lại. Châu hườn hiệp phố)
Ban đầu ngài định chuyên học về Đông y thôi, nhưng thuận theo lời khuyên của Hòa thượng nên ngài lại tiếp tục học thêm lên bậc sơ trung (tức là trung học đệ nhất cấp ngày nay) để mở rộng thêm các kiến thực về văn hóa (Bởi vì ý của Hòa thượng trụ trì muốn rằng sau nay khi ngài xuất gia, phải có đủ khả năng văn hóa, và trình độ học thức mới có thể ra hoằng dương đạo pháp làm lợi ích cho Phật giáo được.).
Vì thế cho nên việc học của ngài chia ra làm ba bộ môn:
– Sáng thì theo học văn hóa (ngoại điển) nơi trường trung học tỉnh.
– Chiều lại thì đi học Đông y.
– Tối đến thì theo chư tăng học các thời khóa công phu, tụng kinh, bái sám.
Vĩnh Tràng tự là một ngôi chùa lớn có đông tăng ni, đặt biệt là Kinh điển (chữ Nho) đầy đủ cho nên ngài được môi trường rất thuận tiện để tu học. Hơn nữa vì đã được biết ngài có chí nguyện xuất gia sau nay nên Hòa thượng và chư tăng trong bổn tự đều có lòng thương mến, giảng dạy cho ngài học thêm phần nội điển (kinh pháp), ấy cũng vì Hòa thượng bổn sư muốn có thiện căn và chủng tử xuất gia của ngài được thêm cơ duyên tăng thượng hầu ngày sau khi xuất gia trở thành một vị tăng sĩ rồi, ngài có đầy đủ hết các phần đạo học cần thiết, khả dĩ có thể làm nên sự lợi ích tốt đẹp cho nền Phật pháp ở tương lai.
Ngài căn tánh vốn dĩ lanh lợi, thông minh, thêm vào đó là sự cần mẫn, quyết tâm học hỏi để đạt cho được mục đích của mình, vì vậy nên tất cả các phần học vấn của ngài từ ngoại điển, Đông y dược học và nội điển thảy đều tiến bộ vượt bậc, đặc biệt là về bộ môn Phật học thì vô cùng xuất sắc. Bởi trong tiền kiếp đã có công huân tu rồi nên hiện đời ngài học kinh điển rất dễ dàng và mau thành thuộc.
Sống ở nơi Vĩnh Tràng tự này ngài được thích ứng cũng như là rồng gặp mây, cá gặp nước vậy mặc tình tu tập cho phỉ chí bình sanh.
Hòa thượng trụ trì và tất cả tăng chúng trong chùa ai nấy cũng đều ngầm hiểu rằng ngài là một “pháp khí” trong đạo Phật và chắc chắn sẽ làm thịnh vượng cho nền Phật giáo về sau.
Phật Ấn Hòa thượng là một vị đại sư có danh cho nên được mọi giới đời, đạo gần xa và riêng tại thị xã Mỹ Tho nể trọng, vì thế mà việc học Đông y của cố Hòa thượng chúng ta cũng nhờ vào đó mà được thuận duyên thêm qua sự giới thiệu của ngài Phật Ấn đến một vài Đông y sĩ nổi danh trong tỉnh lỵ mà đã từ lâu từng quen biết cùng với Hòa thượng Vĩnh Tràng.
Vả lại khi xưa lúc ngài tác ý đi học thuốc thì trong tâm chỉ có một điều nguyện duy nhất là trị lành bệnh cho mẹ rồi đi tu chớ không phải muốn nương dựa vào đó để gây tạo duyên đời. Cái tấm lòng hiếu thảo ấy có lẽ đã cảm đến Phật, Trời nên được bề trên gia hộ, vì vậy mà khiến xui cho ngài mỗi khi đến học Đông y với y sĩ nào thì người đó hết lòng dạy bảo chớ không có dấu nghề, thậm chí còn giới thiệu cho ngài đến các y sĩ bạn hữu danh để học thêm y thuật nữa.
Như trường hợp của vị Đông y Tế An Đường tự thân dẫn ngài đến một người bạn chí thiết của ông ở miền quê nằm sâu trong quận Trung Lương để học cho tường tận thêm về bộ mạch “THÁI TỐ” – là một bộ môn y thuật đoán bệnh như thần, trăm ngàn lần không sai một. (mà ngày nay gần như đã bị thất truyền).
Môn y phương nay rất khó học được, vì thường là không truyền cho người ngoài họ chính ngay như vị y sư của bộ mạch THÁI TỐ nầy trước kia cũng có lời nguyện với sư phụ là chỉ truyền lại (y phương) này cho con trai trong dòng họ chớ không truyền cho con gái – vì sợ con gái khi có gia đình rồi sẽ chỉ lại cho chồng là người dị tộc (khác họ) làm tiết lộ cái y thuật bảo bối (quý báu) của gia đình ra cho người ngoài họ biết đi.
(Người Á Châu ta, thường có cái thông lệ là ưa “dấu nghề” này lắm. Thà là mang theo xuống chốn “tuyền đài” cùng với họ luôn chớ không chịu truyền ra cho người ngoài họ, hoặc truyền cho con gái trong gia đình, vì thế mà chỉ riêng cho ngành Đông y thôi, bị mất đi không biết bao nhiêu là bài thuốc hay được xem như là “thần phương, thánh dược” có công năng “khởi tử hồi sanh” (tức là người mới vừa chết mà uống thuốc này vào cũng có thể sống lại được). Việc làm ích kỷ này trái hẳn với người Âu Châu rộng lượng là khi họ đã phát minh ra được một điều học nào hay hoặc bất cứ là bộ môn nào có tánh cách lợi ích họ cũng đều in ra thành sách và dẫn giải cặn kẽ cho khắp cả mọi người gần xa học hỏi. Cho nên các xứ Tây Âu càng ngày càng thêm văn minh, tiến bộ là như vậy).
Trở lại việc của cố Hòa thượng chúng ta khi được giới thiệu đến để cầu học về bộ “THÁI TỐ thần mạch” nơi vị y sư ẩn danh nay. Có lẽ do vì tấm lòng hiếu hạnh, thiện tâm và đức độ của ngài chiêu cảm, hay là được Phật, Bồ tát gia hộ không chừng, cho nên vị y sư này thay vì từ chối như hàng chục, hàng trăm lần trước đây theo lời thệ nguyện của mình, mà nay trái lại đối với ngài thì y sư đó lại vui lòng chấp nhận và còn tận tình dẫn thêm nữa khiến cho y sĩ Tế An Đường và cả gia đình của chính vị y sư kia đều vô cùng ngạc nhiên, quái lạ.
Cố Hòa thượng theo y sư học bộ mạch THÁI TỔ kỳ diệu này suốt cả một năm, ban ngày thì đến nhà thầy để học, chiều lại thì về ngôi chùa gần bên để trú ngụ (trụ trì ngôi chùa này là bạn của PHẬT ẤN Hòa thượng). Trong thời gian lưu trụ trong ngôi chùa nay, ngài lại có thêm một kỷ niệm vui tươi và ngộ nghĩnh khác nữa mà trong quyển “NHỰT THĂNG tu sĩ di cảo” ghi lại như sau:
– Nguyên đây là một ngôi chùa cổ trong làng nên rất là xưa cũ, chùa gồm có một thầy trụ trì tuổi khoảng 60 và 4 chú tiểu mà chưa có chú nào quá 9, 10 tuổi hết.
Hôm đó thấy thầy trụ trì có việc phải đi cúng đám (ma) ở làng bên, vì đường xá xa xôi nên phải mấy ngày sau mới về được. Trước khi đi thầy kêu mấy chú tiểu tới dặn: Ở nhà phải giữ thời khóa công phu thường lệ chớ không được bỏ bê, biếng trể. Nếu vi phạm thì sẽ bị quỳ hương và phạt đánh đòn (bằng roi mây) nghe không?
Các tiểu đều vâng dạ và thưa rằng:
– Xin tuân lời sư phụ, chúng con sẽ “y giáo phụng hành”. Và do vì thấy mọi chuyện căn dặn đều được mấy chú tiểu dạ rân lên “nhất nhất như luật lịnh” hết nên thầy trụ trì an lòng xách dù, quảy gói ra đi.
Nhưng có một điều quan trọng mà thầy trụ trì quên để ý tới, đó là cách nay năm sáu ngày trước trong làng có một gánh hát mới về và hiện vẫn còn đang tiếp tục trình diễn. Bà con trong làng xem hát đêm nào cũng đi, về ngang qua trước cửa chùa nườm nượp (rộn rịp). Nghe ai nấy cũng đều khen rằng đoàn hát nay hay quá, đào đẹp, kép trẻ, diễn xuất hay, ca ngâm ngọt như mía lùi v.v… làm cho mấy chú nô nức trong lòng, thèm muốn leo rào đi coi hát gần chảy nước miếng mà không dám vì thầy trụ trì còn ở nhà, ngồi đứng một đống chần dần giữa chùa như ông thần hộ pháp gác cổng, thấy bắt dễ sợ thì còn chú nào mà dám hó hé chớ!
Hôm nay đột nhiên nghe thầy nói bận đi cúng đám ở xa, mấy hôm sau mới về thì mấy chú khoái tỉ, mừng rân như tù sắp được thả. Tuy rằng đứng nghe thầy dặn phải nhớ làm thế này, thế kia, miệng thì dạ rân nói y giáo phụng hành (sẽ y theo lời dạy mà làm) nhưng mà mắt của mấy chú đã đá lông nheo với nhau hết, chỉ tội cho ông thầy không thấy mà thôi, vái lầm thầm làm sao để ổng đi cho lẹ, đặng chúng mình còn tính đường “tương chao” nữa chứ (nghĩa là đêm nay sẽ đi xem hát một bữa cho thả cửa, đã thèm).
Vì vậy mà khi thầy trụ trì vừa đi khuất sau cổng chùa là mấy chú đồng nhảy dựng lên, vỗ tay reo hò mừng rỡ như người tử tội được đại xá không bằng.Chiều lại khi cơm nước xong xuôi, mấy chú đến gõ cửa phòng rủ cố Hòa thượng của chúng ta tháp tùng xem hát chung cho vui.
Ngài không chịu đi và đáp rằng:
– Thôi, tôi không đi đâu vì tôi bận học, mấy huynh muốn thì cứ đi xem, để tôi ở nhà giữ chùa cho.
Nghe ngài nói sẽ ở nhà giữ chùa thì mấy chú còn mừng hơn nữa, làm bộ màu mè cám ơn một hồi rồi dặn rằng:
– Vậy sư huynh ở nhà thì nhớ tới 7 giờ 30 lên chánh điện đánh chuông, mõ lên tụng kinh dùm cho chúng đệ nghe, chớ không sư phụ về sẽ bị rầy.
Cố hòa thường đồng ý, chịu liền.
Còn mấy chú thì vui vẻ đi xem hát đến hơn 11 giờ khuya mới về, buồn ngủ ngáp dài, ngáp vắn hết (Bởi vì hồi xưa chùa có cái lệ là tối tụng kinh từ 7 giờ 30 đến 9 giờ, 9 giờ rưỡi là phải đi ngủ hết đến 4 giờ 30 thức dậy tụng Lăng Nghiêm, thập chú – công phu sáng – giờ giấc như thế đã quen rồi). Hôm nay đặc biệt thức quá giờ giấc vì mê xem hát nên chú nào cũng lo sáng bị ngủ quên hết, một mặt căn dặn “sư huynh” nhớ kêu chúng em dậy dùm, một mặt lấy áo tràng trồng vào mình sẵn sàng hết đặng sáng ngủ dậy thì ra tụng kinh liền cho khỏi mất thời gian mặc áo, vì mấy chú sợ rằng sẽ bị ngủ quên dậy trễ giờ công phu đi.
Sau đó đương nhiên là vừa chun vô mùng, đặt lưng xuống chiếu là chú nào, chú nấy thảy đều ngáy lên inh ỏi như là “gọi đò sang sông” vậy. Và tuy rằng ngủ mê nhưng bởi vì tâm thức cứ bị đặt trong một sự cảnh giác là phải nhớ dậy để tụng kinh sáng, đừng có trễ giờ v.v… cho nên vừa mới ngủ được một chập thì bỗng dưng có một chú giật mình thức giấc, còn đang mắt nhắm mắt mở, ngó lên đồng hồ treo trên tường thì đã 4 giờ sáng rồi nên hoảng kinh vội vàng đánh thức mấy chú kia dậy hết mà nói rằng:
Dậy, dậy đi, bốn giờ rồi, lẹ lẹ lên kẻo trễ tụng kinh. (Thật ra thì mới 12 giờ 20 phút thôi, nhưng bởi vì mới thức giấc còn đang sật sừ, say ngủ nên sớn sác ngó không rõ, lầm cây kim dài mà thấy là cây kim ngắn, cây kim ngắn mà lại thấy ra cây kim dài, cho nên mới 12 giờ 20 phút khuya mà thấy lộn thành ra là 4 giờ sáng!).
Mấy chú kia đang ngủ mê nghe kêu dậy và nói là 4 giớ sang rồi thì hoảng vía hết, lật đật ngồi dậy vừa vun vãi, vừa ngáp dài nói bứ xứ rằng:
– Cha chả, bữa nay ngủ một giấc thiệt là ngon hết sức, mới vừa nằm xuống có một chút xíu mà đã tới bốn giờ sáng rồi mau quá.
Sau đó rồi thì cả bốn chú đồng chạy ra ngoài chánh điện, người thì ôm chày đi dộng đại hồng chung, người thì xách dùi khua trống bát nhã, gõ mõ, đánh chuông lên tụng niệm om xòm một hồi, chưa xong thời kinh thì thảy đều lăn cù ra ngủ gục tại chỗ hết!
Lúc đó cố Hòa thượng của chúng ta đang còn thức để học bài, bỗng nhiên nghe tiếng chuông trống bát nhã của thời khóa công phu sáng nổi lên inh ỏi thì ngài lấy làm lạ lắm vì mới có hơn 12 giờ khuya thôi, bữa nay sao mà kỳ cục vậy. Kế tiếp đó ngài lại nghe tiếng tụng kinh vang lên, lè nhè vô trật tự như người say rượu, chưa đầy 15 phút thì êm ru hết nên càng lấy làm quái dị hơn nữa, lật đật chạy lên chánh điện thăm chừng.
Khi lên đến nơi thì ngài trông thấy một cái quang cảnh rất là khôi hài hiện ra trước mắt:
– Chú giữ mõ thì gục đầu xuống ôm cái mõ ngủ khò.
– Chú đánh chuông thì gục đầu vào trong bụng chuông ngái pho pho.
– Hai chú tụng kinh ở phía dưới thì chổng mông lên, gục đầu xuống quyển kinh ngái kêu ro ro như thổi sáo.
Làm cho ngài không sao dằn (bụng) được, đứng bụm miệng lại mà cười sục sục một hồi cho đã, rồi nhẹ chân bước ra ngồi để cho mấy chú được “an lành trong mộng đẹp”.
Tưởng như vậy rồi thôi, không dè cái thời khóa công phu trái giờ giấc đó còn phát sanh ra nhiều chuyện “tréo cẳng ngỗng” khác nữa.
Nguyên trong làng này, hầu hết dân chúng đều không có đồng hồ, (hồi xưa đồng hồ không được phổ cập như bây giờ, nên chỉ vài ba nhà giàu mới có mà thôi) đa số còn lại chỉ căn cứ vào tiếng chuông mõ công phu ở bên chùa mà biết giờ giấc, thí dụ như tối nghe tiếng chuông mõ tụng kinh thì biết là 7 giờ 30, sáng sớm nghe tiếng trống (bát nhã) công phu thì biết là 4 giờ 30 sáng rồi, căn cứ vào đó mà thức dậy, chuẩn bị cho các công việc thường nhật của mình.
Hôm nay cũng thế, khi nghe bên chùa tiếng chuông trống công phu sáng nổi lên thì trong làng có một số các bà buôn bán ở xa thức dậy, sửa soạn hàng gánh, quảy rau cải, gà vịt, tôm cá v.v…đi ra chợ bán. Thường lệ thì mỗi khi họ ra đến chợ một chút sau thì thấy các tiệm bán đồ (tạp hóa) sửa soạn mở cửa, kế lại chút xíu nữa là thấy các bạn hàng khác đồng tới nhóm họp, không bao lâu thì trời sáng trắng ra, chợ nhóm đông đảo, nhưng bữa nay thì ai nấy cũng đều lấy làm lạ không biết vì sao mà khi ra đến nơi chợ lại vắng tanh, chờ hoài cũng không thấy ai tới, mà các tiệm buôn cũng không chịu mở cửa nữa (vì mới có 1, 2 giờ sáng thì đâu có ai mà đi chợ buôn bán) báo hại mấy bà bị gió thổi lạnh run, phần thì chợ khuya vắng vẻ nên ai nấy cũng đều sợ ma hết, nhưng mà lỡ rồi cũng không biết làm sao hơn, đành ngồi chùm nhum lại với nhau nói chuyện cho đỡ rét và đỡ sợ trước cái cảnh đêm khuya vắng vẻ, gió thổi lạnh lùng đó.
Mấy bà tức quá, đến trưa lại thì mãn chợ về nhà xong rồi đồng kéo nhau lên chùa “khiếu nại” thì mới hay là thầy trụ trì bận đưa đám ma đi vắng nên cằn nhằn: “mấy chú hại tụi tôi” một hồi rồi về hết.
Trong số đó có một ông vừa cằn nhằn vừa kể cái chuyện “tréo cẳng ngỗng” của ông như sau:
Theo thường lệ mỗi khi nghe tiếng chuông trống công phu sáng nổi lên như vậy thì ông thức giấc, sửa soạn kẹo đậu phộng, bánh ngọt đem ra ngoài cái quán tranh của ông ở đầu làng bày ra và nấu nước trà để bán cho mấy người đi làm sáng sớm, thí dụ như có ai đi ngang qua thì ghé vào quán tranh của ông mua một hai miếng kẹo đậu phộng ăn và uống nhăm nhi vài ba chung trà nóng cho ấm rồi đi tiếp.
Ngày nào cũng vậy hết, hễ ông ra đến quán, bày hàng ra, vừa nấu xong nước trà thì trời rạng đông (hừng sáng) và có người đến ăn kẹo bánh, uống trà, nói chuyện khào một lúc rồi đi. Nhưng đặc biệt bữa nay sau khi dọn hàng ra rồi, chờ hoài mà cũng không thấy có ai tới hết, trời khuya gió rét làm cho ông lạnh muốn teo ruột, phải rót nước trà nóng ra uống cho ấm lại, mà đã uống trà thì phải ăn kẹo (tựa như nhậu thì phải ăn đồ nhấm vậy), ông ấy nói:
– Báo hại tôi uống hết năm sáu bình trà ngon, ăn mấy chục miếng kẹo đậu phộng thì trời mới sáng, làm bữa nay tôi lỗ vốn. Bắt đền mấy chú đó. Mấy bà mấy ông la lối, kể lể một hồi khiến cho mấy chú xìu luôn như bong bóng bị xì hơi vậy.
– Trong bụng chú nào, chú nấy cũng “đánh lô tô” hết, bởi vì phen này mà “ông già” về thì chỉ còn có nước “xí lắc léo hết mong còn trông chi sống” rồi.
Sau khi mấy ông bà thăng hết rồi thì mấy chú buồn xo, cùng nhau than thở, chiều lại khi cố Hòa thượng của chúng ta từ nơi lớp học trở về, mấy chú kéo đến tâm sự và cầu cứu rằng:
– Ngày mai khi sư phụ về, xin sư huynh nói đỡ lời dùm cho chúng đệ, chớ nếu không thì chắc là “xí” hết cả đám.
Việc này, cố Hòa thượng vì mấy chú mà có bài thơ “thông cảm và lân mẫn” như sau:
Huynh ơi, bị đánh chịu sao kham!
Sư phụ hăm he lỡ sái làm.
Cũng bởi trống kèn đào kép gọi,
Khiến kẻ thiền môn nổi tánh tham.
Quỳ trước bệ vàng xin “khấn nguyện”,
Hát xướng từ đây dạ hết ham.
Hộ pháp ngài ơi xin “cứu giá”,
Thần nhãn hôm qua hại xác phàm!!
Mà quả thiệt như điều mấy chú lo sợ, hôm sau thầy trụ trì về, thì mấy ông, mấy bà lại “quang giáng đạo tràng” thêm một lần nữa, kể lại cho thầy cả nghe về cái thời khóa công phu sáng “tréo cẳng ngỗng” này và báo cáo lên các sự thiệt hại của họ như là người thì cảm hàn (vì bị gió khuya lạnh), người thì sợ ma thiếu điều muốn đau tim luôn, người thì bị lỗ vốn vì ăn thâm bánh kẹo v.v…
Báo hại thầy trụ trì phải kêu mấy chú tới xin lỗi và hứa không được tái phạm như vậy nữa.
Sau khi mấy ông mấy bà “thăng’ hết rồi thì quý độc giả cũng dư biết là chuyện gì xảy ra cho mấy chú rồi Bảo Ðăng xin miễn nói tiếp thêm. Bởi càng nói đến cái việc đó bao nhiêu thì càng thêm “tội nghiệp” bấy nhiêu!
Lý do vì Bảo Ðăng tôi còn tìm thấy trong di cảo có thêm một bài thơ khác nữa tiếp theo bài thơ “thông cảm và lân mẫn” trước như vầy:
Công phu thường khóa nhớ hay chưa?
Mấy tiểu vòng tay dạ kính thưa:
Sư phụ yên tâm xin chớ ngại,
Y lời dặn bảo dám “thưa mưa”
Mới lỡ lần đầu xin bớt giận,
Cúi dài chịu gậy mấy ai ưa
Úi cha đau quá xin nhè nhẹ,
Nứt đít từ nay hứa sẽ chừa.
Tiếp tục trở lại việc học của Cố Hòa thượng.
Như trước đã lược sơ qua, gồm có ba phần chánh yếu:
– Ngoại điển (sơ trung) – để theo kịp trào lưu tiến hóa của nền khoa học hiện đại cùng bảo đảm cho trình độ văn hóa tối thiểu cần phải có của một vị tăng (tương lai) khả dĩ có thể làm nên cho Phật giáo trong mai hậu (Và cũng để cho người Phật tử cư sĩ tại gia không dám khởi ý niệm coi thường hoặc bĩu môi khi dễ rằng đó chỉ là một thầy tăng quê mùa dốt nát, thất học).
– Đông y dược học với chủ ý duy nhất là mong sao sớm được thành đạt để về cứu bệnh cho mẫu thân hầu báo đáp được chút ít phần nào hiếu niệm và đền ơn sanh dưỡng trước khi xuất gia đầu Phật.
– Nội điển để làm một nền tảng giáo lý vững chắc cho kiến thức Phật pháp (bắt buộc phải có) của một người “Như lai sứ giả” sau này trên bước đường tu niệm và hoằng dương đạo pháp.
Đặc biệt riêng về bộ môn Đông y của cố Hòa thượng đang theo học, thì nhờ vào sự lưu tâm, ân cần và đề bạt của Hòa thượng bổn sư PHẬT ẤN cùng với sự chỉ dạy tận tình của vài ba Đông y sư danh tiếng đương thời trong thị xã mà từ lâu đã có lòng thương mến qua tánh hạnh và hiểu rõ về tâm nguyện của ngài (học thuốc chỉ dùng vào một việc duy nhất là cứu bệnh cho mẹ rồi đi tu mà thôi) cho nên dần dần theo ngày tháng trôi qua, với sự thông minh và siêng cần học hỏi, ngài đã tiến thêm được những bước thật dài trong sự tinh thông của ngành Đông y học.
Chẳng hạn như:
– Từ nơi Lâm y sư, ngài đã hoàn tất và thấu triệt về bộ mạch Thái Tố.
– Từ nơi Tạ y sư, ngài tinh thông về các phương thức trị liệu khác như là: nhận diện các mặt thuốc, chẩn mạch, kê toa, đầu thang (hốt thuốc) và các kinh nghiệm cần thiết trong ngành Đông y dược học từ nơi các bậc đàn anh, tiền bối truyền lại.
Đến năm ngài được 18 tuổi (1943) thì ngài đã hoàn tất xong các phần sở học.
– Về ngoại điển thì ngài đã tốt nghiệp bằng Thành Chung (tức là bằng trung học Đệ I cấp hồi xưa – Tương đương với lớp Đệ tứ và lớp 9 sau này).
– Về Đông y ngài cũng đã hoàn mãn được trình độ của một người y sĩ cần phải có.
Các y sư giáo học liên hệ đều đồng ý cho phép ngài từ nay được tự lực, một mình bắt tay vào việc chữa trị bệnh tình cho thân mẫu (không phải là chỉ từ bây giờ mới bắt đều trị bệnh thôi đâu, mà thời gian trước đó, mỗi năm cứ vào dịp lễ và nghỉ hè, ngài đều có về thăm nhà và mang theo các loại thuốc cần thiết cho bệnh tình của mẹ để điều trị “lai rai” trước rồi – Còn nói là “cho phép ngài được tự lực, một mình chữa trị bệnh,” bởi vì trong những năm và những lần về trước kia khi ngài không được phép một mình tự ý đầu thang hoặc là kê toa, bốc thuốc cho mẹ mà phải qua sự chỉ dẫn, cố vấn cùng ý kiến của các y sư giáo học).
Đến thời gian này (1943) thì cuộc đời của ngài lại đi thêm vào trong một ngõ đường và một giai đoạn mới nữa. Trong khi các bạn học (đời) của ngài, có người thì theo học ngành sư phạm, người theo học lên các lớp cao hơn, hoặc có người rời bỏ hẳn mái ấm học đường, chen thân ra ngoài xã hội tìm kế sanh nhai, hay sinh phương lập nghiệp v.v…
Còn riêng ngài thì phấn khởi, bắt đầu nhìn về phía tương lai và dấn thân vào trong ý định dùng với tâm nguyện của mình. Một cái tương lai, ý định và tâm nguyện mà trên cõi đời này hầu hết các thanh thiếu niên cùng lứa tuổi như ngài ít ai có được.
GIAI ĐOẠN TRỊ BỆNH CHO MẸ VÀ CHUẨN BỊ XUẤT GIA
Sau khi được các y sư giáo học xác nhận là ngài đã có đầy đủ khả năng và trình độ cần phải có của một Đông y sĩ, khả dĩ có thể tự mình đứng ra đảm nhận lấy việc điều trị và phục hồi bệnh tật cùng sức khỏe cho thân mẫu, với lại hơn nữa việc học (ngoại điển) cũng đã xong rồi nên ngài lên đảnh lễ Hòa thượng bổn sư PHẬT ẤN, trình bạch hết mọi việc, xin phép Hòa thượng được xuất tự một thời gian ngắn để trở về nhà trị bệnh cho thân mẫu theo đúng như tâm nguyện của mình, trước khi xuống tóc xuất gia, vĩnh viễn làm một người Tăng sĩ và được Hòa thượng PHẬT ẤN hoan hỷ hứa khả.
Ngài cũng đến lạy chào và tạm biệt chư tăng nơi Vĩnh Tràng tự cùng thưa rõ các ý định của mình, chư tăng thảy đều hoan hỷ và dạy rằng:
– Nguyền cho người được như ý nguyện, và hoàn mãn hiếu niệm, khi nào xong rồi hãy nhớ sớm quay trở lại chốn thiền môn, chớ nên ở nhà lâu mà phải bị nhiễm sâu nơi chốn hồng trần, muội đi chơn tánh.
Kế tiếp ngài ra nơi chánh điện lạy Phật, rồi trở về phòng lo chuẩn bị khăn gói “hạ san”.
Kể từ khi nhập tự học hành (1938) cho đến khi hoàn thành và xuất tự (1943) Thời gian gồm hơn 4 năm có lẻ (thêm mấy tháng).
Việc này trong quyển “Nhựt Thăng Tu sĩ di cảo” có ghi lại một bài thơ sau đây:
Bốn năm nương bóng chốn am thiền,
Với mọi duyên đời đã tịch nhiên.
Kinh kệ, mõ chuông lòng thấy tịnh,
Cam lồ rửa sạch mối oan khiên.
Chắp tay kính bạch lên Hòa Thượng,
Vĩnh kiếp lòng con dạ vẫn kiên.
Xuất tự để lo tròn hiếu niệm,
Tạm biệt hồi gia cứu mẹ hiền.
Nhựt Thăng Tu sĩ
(Ngày xuất tự)
Bắt đầu từ đó (khoảng đầu năm 1943) nơi gia đình, ngài chánh thức trách nhiệm việc chẩn mạch, kê toa, và đầu thang (hốt thuốc) để điều trị bệnh tình cho mẹ cùng với sự tiếp tay và giúp đỡ của các anh chị em.
Với bộ mạch Thái Tố thần diệu mà ngài đã học được từ nơi Lâm y sư trước kia, nay ngài đem nó ra áp dụng vào trong việc truy nguyên căn bệnh của thân mẫu một cách tỉ mỉ, cẩn thận và kiên nhẫn suốt mấy tháng dài. Bởi do nơi hiếu tâm và lòng thương mẹ nên ngài không quản ngại cực khổ, nhọc nhằn thức giấc đêm khuya, tự thân mình săn sóc, hầu hạ thuốc thang cùng theo dõi mọi chuyển biến của bệnh tình trong suốt thời gian điều trị.
Và cũng trong thời gian này, cố Hòa thượng cũng đã có lưu lại cho gia đình (và cho cả chúng ta nữa) mọi kỷ niệm vui và một câu chuyện “hỉ tiếu” (khôi hài) sau đây:
– Nguyên trong mấy năm sau chót về ở cùng với gia đình để lo săn sóc và điều trị bệnh tình cho mẹ, thì chẳng những ngài là một y sĩ riêng cho cụ bà không thôi mà đồng thời cũng còn là một y sĩ chung cho cả gia đình nữa. Trong nhà, các anh chị em lớn nhỏ, hễ ai có bệnh tật hay đau yếu chi chi cũng đều đến bày tỏ những việc “ai đau khổ” của mình với ngài để nhờ ngài chẩn mạch và cho thuốc trị bệnh hết.
Cả cụ ông cũng thế …
Một hôm cụ ông bảo với “đứa con y sĩ” của mình rằng:
– Thăng con, mấy hôm nay cậu “đi đồng” không được điều hòa, giống như bị bón uất, trong mình nóng nảy và hay đau bụng (Đi đồng tức là đi cầu – sở dĩ gọi là đi đồng là vì dưới miền quê, người ta không có làm cầu tiêu trong nhà như ở thành phố, mà thường hay làm nhà cầu bên ngoài có khi cách xa nhà cả trăm thước, hoặc trên bờ sông, bờ ao (nuôi cá vồ) hoặc trên mé rạch cho nó được sạch sẽ theo nước thủy triều, hoặc đôi khi không cần làm nhà cầu chi cả, mỗi lần muốn “xả cảng” cho nó khỏe khoắn và nhẹ nhàng trong người là cứ việc ôm bụng, xách quần chạy thẳng ra ngoài đồng ngồi đại trên bờ đê hay khuất sau lùm bụi, bờ ruộng … mà làm cái việc “tự nhiên” và “cần thiết” này – khi nào xong xuôi rồi thì vui vẻ huýt sáo trở vào.
Danh từ “đi đồng” này ở dưới quê ai cũng biết hết).
Vậy con xem thử coi có thuốc gì cho cậu uống không?
Sau khi chẩn mạch và khám bệnh cho thân phụ xong, ngài nói:
– Cũng không có gì đáng lo ngại lắm, cậu chỉ bị táo bón thông thường thôi. Để mai này nhơn dịp xuống Mỹ Tho bổ thêm thuốc mới cho má, con hốt cho cậu vài thang thuốc nhuận trường (thuốc xổ) uống xong thì hết bệnh ngay.
Sau khi ngài mang mấy thang thuốc của cụ ông về rồi thì giao cho người em gái út sắc thuốc. Đương nhiên là bữa đó nấu một lượt hai siêu (ấm bằng đất để nấu nước, hoặc thuốc bắc) thuốc, một siêu thuốc cho cụ bà và một siêu thuốc cho cụ ông.
Trước khi ngồi vào tu theo khóa lễ thường nhật, ngài có dặn cô em út rằng:
– Siêu thuốc này là của cậu, còn siêu thuốc kia là của má. Em đun lửa và coi thuốc cho cẩn thận, anh mắc bận niệm Phật, khi nào thuốc chín tới rồi thì rót ra chén. Thuốc nào của má thì bưng lên cho má, thuốc nào của cậu thì bưng lên cho cậu. Nhớ đừng làm lộn thuốc nghe chưa.
Cô em dạ rân, thi hành nhiệm vụ.
Còn ngài thì yên tâm vào trong khóa lễ.
Đến khi ngài hoàn mãn khóa lễ thì cô em cũng đã sắc xong thuốc trước đó mấy phút và bưng đến trao cho hai cụ rồi.
Ngài thay áo tràng xong mới đến hỏi mẹ:
– Con út nó có bưng thuốc đến cho má uống chưa?
Cụ bà đáp:
– Nó bưng đến rồi nhưng mà thấy nóng quá nên còn để đó chờ thuốc nguội một chút.
Ngài nghe nói vậy thì gật đầu, bưng chén thuộc lên nếm thử xem có vừa uống hay chưa đặng đích thân hầu thuốc cho mẹ.
Vừa đưa chén thuốc lên môi và nghe mùi thuốc bốc lên mũi thì ngài đã hơi nghi rồi, vội nếm thử một chút thì giật mình, hoảng hốt nói:
– Ý a, con út nó bưng lộn thuốc của cậu cho má rồi. Vậy má ngưng đi, đừng uống để con xem lại.
Đoạn ngài tức tốc chạy lên nhà trên thì thấy cụ ông vẫn đang còn ngồi trên ghế uống nước trà.
Ngài lật đật hỏi:
– Cậu có uống thuốc chưa?
Cụ ông đáp:
– Chưa, còn chờ cho nó nguội thêm một chút xíu nữa.
(May phước là chưa có ai uống hết, chớ nếu không thì chắc có lộn xộn, rắc rối).
Ngài thở phào, nhẹ nhõm trong bụng, nói rõ vụ lộn thuốc cho cụ ông nghe và mang thuốc vào đổi lại cho đâu vào đó. Đương nhiên là cô em bị rầy và bị ký đầu mấy cái – bởi vì thuốc của cụ bà dùng để trị bệnh đàn bà, còn thuốc của cụ ông là thuốc xổ.
Ngài cười hỉ hả nói:
– Nếu như mà má lỡ uống chén thuốc này của cậu rồi thì má sẽ bị “xổ” một ngày 3, 4 lần, còn như cậu mà uống lộn chén thuốc kia của má thì cậu sẽ bị “bón” thêm vài ba hôm nữa.
Cả nhà ai nấy đều cười rộ vui vẻ (và hết giựt mình).
Nhân dịp này, ngài có kể lại cho gia đình nghe cũng một vụ trao lộn thuốc của người này cho người kia như sau:
Nguyên lúc ngài còn ở trên Mỹ Tho học thuốc thì có quen và kết bạn “vong niên” (tức là bạn già tuổi hơn mình) với một ông thầy thuốc bắc Tàu, người Quảng Đông. Hai người rất thân và ưa ái lẫn nhau, thầy này nói tiếng Việt cũng rất giỏi, tên là ông “Thầy Sáu”.
Thầy thường kể cho cố Hòa thượng của chúng ta nghe về những kinh nghiệm bản thân và một số kỷ niệm buồn vui trong nghề làm thầy thuốc của mình. Có lần thầy kể lại một chuyện “trao lộn thuốc” của thầy như sau:
Trước khi thầy Sáu về chợ Mỹ Tho mở dược phòng, chẩn bệnh và buôn bán thuốc cao đơn, hườn tán, thì thầy là một “y sĩ vườn” (thầy thuốc ở miền quê) ở trong một làng nhỏ thuộc quận Chợ Gạo (giáp ranh với quận Hòa Đồng, Gò Công).
Tánh thầy hiền lành, ưa làm phước và bố thí thuốc cho người nghèo nên quanh vùng ai nấy cũng đều thương mến và quý trọng.
Một bữa nọ thầy Sáu mắc bận đi khám bệnh và đỡ đẻ cho mấy bệnh nhân ở trong ấp xa. Trước khi đi thầy có dặn rằng nhỏ giúp việc (khoảng 11, 12 tuổi gì đó thôi) rằng:
– Ngộ bận đi khám bệnh ở xa, chắc khuya ngộ mới về tới. Vậy thì bữa nay nị khoan về nhà sớm hả, ráng chờ thêm một chút xíu nữa và nhớ đưa mấy cái thang thuốc có cột bằng dây đỏ này cho ông cai tổng nghe (tương tợ như ông xã trưởng bây giờ vậy). Còn mấy cái thang thuốc có cột dây xanh này thì nị để lại, mai người ta mới đến lấy. Nhớ đừng làm lộn nghe. Tối ngộ mới về. Cám ơn nị trước hả.
Thằng nhỏ dạ om sòm vâng lời, còn thầy thì an tâm khăn gói ra đi.
Khuya hôm đó thầy Sáu mới về đến nhà, phần bị trời mưa lạnh, phần đường xa mệt mỏi nên thầy nằm lăn ra, thẳng cẳng ngủ khò một giấc cho đến sáng hôm sau mới thức dậy mở cửa tiệm làm việc theo như thường lệ.
Một lát sau thì bệnh nhân hôm qua đến, thầy mới lật đật kéo học tủ ra lấy thuốc trao cho thân chủ, bỗng nhiên thầy hoảng hồn, chết điếng cả mấy phút đồng hồ khi khám phá ra rằng mấy thang thuốc này là mấy thang thuốc cột bằng dây màu đỏ của ông cai tổng, còn mấy thang thuốc cột dây màu xanh của thân chủ hôm nay đây thì “thằng ông nội con nít” giúp việc đã trao lộn cho ông cai tổng ngày hôm qua mất tiêu rồi!
Thầy Sáu vừa run vừa sợ, lập cà, lập cập hốt mấy thang thuốc khác trao cho thân chủ (Bởi vì thầy là người Tàu nên sợ bị liên quan đến cò bót, làng xã lắm, đa số người Hoa ở vào thời kỳ này, nhất là ở miền quê thì họ mong sao cho được an thân để làm ăn nuôi vợ, nuôi con thôi. Ai làm sao thì làm, ngộ đây không có biết gì hết).
Sau khi thân chủ lấy thuốc xong rồi thì thầy Sáu cũng tựa như là một người đã chết đi rồi vậy. Bởi vì ông Cai tổng này hung dữ có tiếng, hở ra một chút là bắt người, cùm cột hay đánh đập, bỏ tù, ở trong Tổng này ai cũng sợ ổng hết. Vả lại mấy thang thuốc này là để trị bệnh cho bà vợ bé của ổng, bà này 5, 6 tháng nay bị bệnh nặng lắm, ăn uống không được, tiêu tiểu không thông, bụng chang bang lên như cái trống chầu, da dẻ vàng khè như thoa nghệ, tiếng nói khào khào, thở không muốn ra hơi, hình tướng tiều tụy lắm, rõ ràng là sắp hiện ra tử tướng (tướng gần chết) tới nơi rồi.
Nguyên bà nhỏ này trước kia là một người đẹp nên ông Cai Tổng thương yêu lắm, thiếu điều muốn chết mê, chết mệt vì bà – mấy tháng nay bà bị bịnh nặng như vậy nên ông Cai Tổng vô cùng lo lắng, tìm thầy chạy thuốc khắp nơi mà “cục cưng yêu quý” của ông vẫn không thuyên giảm chút nào. Do vì vậy cho nên ông Cai Tổng buồn bực nổi cáu lên (nổi giận), ai mà lôi thôi với ổng lúc này thì coi như là bị ở tù mệt nghỉ.
Hôm nay chắc ngộ tới số dồi. Diêm vương bôi tên, Ngọc Hoàng giũ sổ ngộ dồi, nên mới khiến cho ngộ đưa lộn mấy thang thuốc “xổ” của người kia cho bà vợ bé của ổng uống. Bả bị bệnh nặng như vậy, mất hết sức lực, đi đứng không nổi, nằm luôn một chổ để chờ “hui nhị tỳ” thôi, nếu bả mà uống mấy cái thang thuốc kia vào rồi, bả bị “xổ chảy re” một ngày 5, 6 lần thì chỉ còn có nước đứt hơi thở sớm “xí lắc léo” là cái chắc. Mà nếu như bả bị “Xí” (chết) đi rồi, thì ngộ đây chắc cũng phải “Xí” theo bả luôn cho có bạn, vì ông Cai Tổng nhứt định là sẽ không bao giờ dung tha cho ngộ hết. Bởi ngộ đã tiêu diệt cái “cục cưng yếu quý” của ổng thì ổng cũng sẽ tiêu diệt ngộ lại để trả thù.
Dầu ngộ có chạy về Tàu cũng khó sống nữa!
Thầy Sáu càng nghĩ càng sợ, mồ hôi, mồ kê chảy ra như tắm, run lập cập, cả mình sởn ốc lên hết. Một hồi lâu mới định thần lại và thầy quyết định là phải bỏ nhà bỏ tiệm để “đào tẩu” trước khi lính Tổng đến bắt mình.
Thôi thì “Tiên hạ thủ vi cường” (Ai ra tay trước thì hơn) ngộ phải trốn đi liền mới được.
Thầy mở tủ áo quơ vội vài ba bộ đồ bỏ vào trong bọc rồi chạy ra ngoài bờ sông lấy ghe, định bụng sẽ theo đường thủy chạy trốn. Rủi quá, nhằm bữa đó nước sông ròng gần sát đáy nên chiếc ghe bị mắc lầy (mắc cạn trong bùn) đẩy hoài mà vẫn không nhúc nhích, thầy cố gắng hết sức đẩy chiếc ghe tới lui, qua lại, đẩy đến nổi tháo mồ hôi hột ra mà chiếc ghe vẫn cứ y nhiên nằm chình ình ra trên mặt bùn chớ không chịu chạy xuống nước.
Thầy vừa sợ vừa suy nghĩ:
– Bữa nay đúng là Trời hại ngộ dồi nên chiếc ghe này cũng không chịu chạy nữa.
Thầy Sáu liền bỏ ghe định leo lên bờ chạy bộ thì thầy chợt phát giác ra lý do, té ra là bởi vì sợ quính quíu quá nên cứ lo đẩy ghe không thôi mà quên mở đôi (tức là dây cột ghe vẫn trong chân cầu), cho nên thầy chổng mông lên, è ạch đẩy thiếu điều muốn đứt hơi thở luôn mà nó không chịu cục kịch chút nào!
Thầy vội mở đôi ra, vừa đẩy ghe xuống nước xong leo lên định chống ra sông thì thấy nghe ngoài vàm (cách chỗ thầy khoảng 2, 3 trăm thước) có tiếng mấy ông lính Tổng (họ cũng chèo ghe đi kiếm nhà cửa thầy nữa) kêu bảo nhau rằng:
– Đây nè, đúng rồi. Quẹo ghe vô cái ngõ rạch này là tới ngay nhà của thằng cha Thầy Sáu. gớm, kiếm cái nhà của cha “lang băm” này thiệt là mệt.
Thầy Sáu nghe lính nói vậy thì càng hoảng kinh hơn nữa, thầy nghĩ bụng rằng:
– Chắc là bà Tổng bé uống thuốc vô bây giờ đã “Xỉ chảy” dồi nên ông Cai Tổng sai lính tới đây bắt mình.
Thấy đường sông đã bị chận đầu rồi, nên thầy Sáu lại lật đật bỏ ghe, leo lên bộ chạy theo đường tắt ở phía sau nhà để trốn cho lẹ. Thầy cắm đầu chạy một hồi được đâu khoảng chừng 3, 4 trăm thước, thì chợt nhớ ra là bởi vì mình vội vàng quá cho nên quên mang theo cái giấy “thuế thân” (Hồi xưa lúc Tây còn cai trị thì mỗi người dân đều được cấp cho một cái giấy “Thuế thân”, cũng tựa như giấy căn cước sau này vậy.
Người nào mà có giấy này thì được chánh quyền nhìn nhận là công dân hợp lệ có trả đầy đủ thuế cho chánh phủ. Ai không có thì là ở lậu, bất hợp lệ, phải bị ở tù, vì vậy nên thiếu cái gì cũng có thể được, chớ cái giấy “thuế thân” này rất ư quan trọng không thể nào thiếu được hết).
Thầy vội vã chạy trở lại nhà để lấy giấy “Thuế thân” mang theo, nhưng bởi vì sợ quá nên thành ra lẩm cẩm, quên mất không nhớ là cái giấy ấy để ở chổ nào nữa! Thầy vừa run, vừa khẩn trương kéo học tủ này ra lục, mở cửa tủ kia ra tìm, một hồi lâu mới thấy “nó”. Thầy mừng quá, thở phào một tiếng, lấy tay quẹt mồ hôi trán rồi đứng lên định nghỉ xả hơi một vài phút cho bớt mệt rồi sẽ tiếp tục ca bài ca “tẩu mã” nữa.
Nhưng thầy chưa kịp nghĩ xong thì nghe có tiếng mấy ông lính Tổng nói vang rân lên trước cửa:
– Đúng ngay bon rồi. Đây là nhà của cha thầy Sáu đó, ủa mà sao cửa đóng, hổng biết cha nội có ở nhà hôn. Xô đại vô đi.
Trong khi thầy Sáu còn đang run rẩy thì cánh cửa tiệm bị xô bật ra một cái rầm. Ba bốn ông lính Tổng thuộc về loại “quan to súng dài”, ông nào ống nấy cũng đều lực lưỡng, to con như ông thần ở ngoài đình làng vậy, hiện ra ngay trước cửa làm cho Thầy Sáu sợ điếng cả người, đứng trợn mắt, hả miệng ra, chết trân một chỗ như bị trời trồng, nói không ra tiếng.
Hai ông lính chạy tới kẻ thì nắm tay, người thì nắm vai thầy, xô xô mấy cái rồi nói lớn:
– Phải ông là thầy Sáu hôn?
Thầy Sáu run lập cập đáp:
– Phải … phải … phải, ngộ là … thầy… Sáu, thầy Sáu … là … ngộ. Mấy quan … kiếm … ngộ … có việc … gì không?
Lính nói:
– Ông Tổng sai tụi tôi đến kiếm thầy để …
Thầy Sáu càng run rẩy dữ tợn thêm nữa (bởi vì thầy nghĩ là ông Tổng sai lính tới kiếm mình để bắt).
Thầy lập cập hỏi:
– Kiếm … ngộ … để … làm … gì?
Mấy ông lính nói:
– Thầy Sáu đừng sợ, Trời đất ơi, thầy giỏi quá chừng, nhờ mấy thang thuốc của thầy hốt cho mà bà Tổng nhị (tức là bà Tổng hai, bà bé) uống vô xong rồi thì bả “thượng thổ, hạ tả” (trên miệng thì ói ra, dưới thì tiêu chảy) đái vãi ra đầy giường đầy chiếu hết mấy lần.
Bây giờ thì bụng của bả đã xẹp lại như thường rồi, bả nói trong mình thấy khỏe, muốn ăn cháo, uống sữa, mặt mày của bả cũng hơi hồng hào trở lại …
Ông Tổng mừng lắm sai tụi tôi tới kiếm thầy để hốt thêm thuốc cùng thưởng tiền cho thầy nè …
Và thầy Sáu chỉ còn có đủ một chút “hơi tàn” để nghe tới đây mà thôi. Thầy rên lên mấy tiếng rồi té xỉu luôn xuống đất, không còn biết gì nữa hết … Sau đó, khi xong cái chuyện kinh khủng này rồi, thì thầy Sáu thu xếp mọi thứ, bỏ quê lên chợ Mỹ Tho để tìm sống trên đất mới chớ không dám ở dưới vườn nữa, vì thầy biết sách có câu rằng:
– Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí.
Tức là:
– Phước không đến hai lần, chớ còn họa thì đến hoài không biết trước được …
Sau khi kể xong chuyện này rồi, ngài kết luận rằng:
– Phải nên cẩn thận chớ đừng có cho uống lộn thuốc như trường hợp con út trao lộn thuốc của cậu cho má vậy.
Cả nhà ai nấy đều ôm bụng cười ngất.
(Và đây cũng là một giai thoại, một kỷ niệm vui vẻ cuối cùng của ngài trong suốt mấy năm sau chót ở nhà cùng với gia đình vậy).
***
Bậy giờ tiếp tục trở lại việc trị bệnh cho mẹ của cố Hòa thượng.
Và rồi Phật, Trời không phụ hiếu tâm nhơn, cho nên sau đó không bao lâu, nhờ bộ mạch Thái Tố này mà ngài tìm ra được nguồn gốc của căn bệnh và biết rõ được các phương pháp trị liệu. Trong suốt mấy năm sau cùng ở nhà với gia đình, ngài vẫn thường xuyên lên xuống, qua lại giữa chợ Mỹ Tho và Bình Xuân để bổ thuốc và tham khảo ý kiến với thầy học là Tạ y sư trong việc điều trị bệnh tình cho mẹ (xem như là cụ bà được 2 y sĩ có tài đồng chăm sóc một lúc). Nhờ đó và thêm vào nữa là việc thuốc thang đầy đủ, điều trị đúng cách, nên bệnh tật của bà cụ càng ngày càng thêm thuyên giảm một cách rõ rệt. Cụ ông và cả nhà ai nấy cũng đều mừng rỡ.
Thời gian này (từ 1943 – mùa xuân 1943 Ất Dậu) ngoài việc chuyên chú trị bệnh cho mẹ ra, thêm vào đó, ngài còn lợi dụng các thời giờ rỗi rảnh, mang Phật pháp ra giảng dạy cho phụ mẫu và người anh thứ năm nghe (Các anh chị em khác thỉnh thoảng tuy cũng có nghe nhưng không phát tâm) cùng khuyến khích gia đình tu niệm, phát lòng tin hướng nơi Tam bảo. Ngài lại vì cha mẹ và gia đình mà thiết lập bàn thờ Phật, hướng dẫn cách thức tụng niệm, lễ bái, chỉ dạy cho những điều quan trọng, cần thiết mà người Phật tử tại gia phải nên có và phải nên biết.
Qua sự giáo hóa của ngài, ông bà cụ cố và người anh thứ 5 đều phát tâm thực hành tu niệm, còn riêng về phần cụ bà thì nhờ vào sự an vui bên cạnh con, an vui trong câu niệm Phật và sự tận tụy chăm sóc thuốc thang của ngài nên chẳng bao lâu (vào cuối năm 1944) cụ được hoàn toàn lành mạnh, phục hồi đầy đủ sức khỏe lẫn tinh thần (và sống đến gần 100 tuổi sau này – Cụ bà mất vào năm 98 tuổi, trước cố Hòa thượng khoảng 4 năm tại Phương liên tịnh xứ đạo tràng – sẽ nói đến ở phần sau).
Đến đây, ta có thể nhận thấy rằng:
– Khoảng đời thơ ấu của cố Hòa thượng trong suốt 19 năm tại gia – từ khi sơ sanh cho đến trước ngày xuất gia, nhập tự – chẳng những ngài đã không gây tạo nên điều chi thương tổn đến gia đình, mà trái lại ngài còn (mang thêm đến cho song thân cùng gia đình) nhiều điều hân hạnh;
– Về phương diện đời thì kể từ khi còn nhỏ (đã có sơ lược qua trong phần đầu) ngài đã được người trong xóm làng quý trọng và xem như là một gương sáng để căn cứ vào đó mà dạy bảo cho con, cháu của mình. Đến khi lớn khôn, lìa quê lên tỉnh học thì thi cử đổ đạt (Vào những thập niên 1930-1950) này, đa số dân chúng ở làng quê ít có ai qua khỏi được chương trình tiểu học hết, huống hồ chi nói đến trung học. Nếu như có ai lên tỉnh học và đổ được bằng Thành Chung (như cố Hòa thượng đây) thì đó chẳng phải chỉ là một điều hân hạnh riêng cho gia đình, không thôi đâu mà là còn chung cho cả xóm làng nữa).
– Về phương diện Đông y thì sở học của ngài cũng đã được thành đạt và trở thành một Đông y sĩ trẻ tuổi nhất – giả sử nếu như ngài không có chí nguyện xuất gia mà vẫn ở ngoài đời như các thanh niên khác trong xã hội thì ngài vẫn có thể ra mở được dược phòng Đông y, sanh phương, lập nghiệp … thì chắc chắn là sẽ trở thành một Đông y sĩ có tài, nổi tiếng (vì nếu như đã dứt được căn bệnh trầm kha, khó trị của thân mẫu rồi thì các bệnh tật thông thường khác ngài cũng có thể trị hết được).
– Về phương diện đạo giáo, thì mặc dầu mới có 18-19 tuổi đầu thôi, thân tuy còn ở tại gia, hình tướng tuy còn là học sinh, cư sĩ mà ngài đã sớm chứa được “một bụng kinh luân” (ủa quên) “một bụng đạo học” và tinh thông, am tường Phật kinh, giáo điển rồi. Hơn nữa, thêm vào đó ngài còn có một cái tâm nguyện và một ý chí thoát tục khác thường mà hầu hết mọi người trên đời này ít bao giờ (có ai) lưu tâm nghĩ đến.
(Cho nên có thể nói rằng một người thanh niên như ngài rất là hiếm có và xứng đáng được cho ta cũng như mọi người đều ngợi khen kính trọng vậy.
Vì sao Bảo Đăng lại dám quả quyết như thế?
– Bởi vì ngài đã hội đủ được hết các điều kiện thuận lợi (vào trong thời buổi đó) mà những bạn cùng trang lứa đương thời thảy đều ước mơ, thao thức và mong lấy đó để làm nấc thang hầu bước lên con đường tương lai sáng sủa đầy nhung gấm, cao sang nơi chốn trường đời, thành tựu giấc mơ xưa, thuở mà mới vừa lớn khôn lên và được mẹ cha “nung chí anh hùng” cho nơi đường vinh hoa, phú quý sau này).
Còn riêng đối với ngài thì không theo thế tình như vậy. Là một người có căn tu sâu dầy trong quá khứ, cho nên kiếp hiện tại này ngài đã sớm thức ngộ được ý vạn vật vô thường như bài kệ trong Kim Cang kinh sau đây:
Nhứt thiết hữu vi pháp,
Như mộng, huyền, hào ảnh.
Như lộ, diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.
Tạm dịch:
Hãy xem các pháp hữu vi,
Khác nào bóng, bọt, khác nào điểm sương.
Quán xem các pháp vô thường,
Diệt sanh, sanh diệt như tuồng chớp giăng.
Và cũng bởi vì thấy rõ được các sự vinh hư, thành bại của đời rốt lại cũng chỉ là phù không mà thôi. Nên vào khoảng tháng 3 dl năm 1945 (qua tết Ất Dậu) sau khi xác thực được rõ ràng các việc:
– Mẹ đã hoàn toàn lành hẳn các bệnh tật.
– Cả phụ mẫu (và anh năm) cũng đã ít nhiều phát khởi đạo tâm, quy hướng Tam Bảo, niệm Phật tu hành.
– Ý nguyện năm xưa của mình đối với thân mẫu (và gia đình) cũng đã hoàn mãn.
Nên ngài quyết định một “đại sự tối hậu” khác nữa là trình bạch lên song thân cái “Ý ĐỊNH XUẤT GIA” của mình.
GIAI ĐOẠN TRÌNH BẠCH XUẤT GIA
(Từ đây về sau là bắt đầu khởi qua một gia đoạn khác, cực kỳ quan trọng cho cuộc đời tu hành của cố Hòa thượng – 1945 – 1992 (ngày 21/11 Âl Nhâm Thân niên)).
Mặc dầu từ lâu ông bà cụ cố cũng đã rõ biết rằng đứa con đặc biệt này của mình không phải thông thường như các con khác, mà lớn lên rồi nó sẽ đi tu, sẽ lìa bỏ gia đình, sẽ trở thành một ông sư nơi cửa Phật và mặc dầu cũng đã được ngài (nhiều lần) gián tiếp “Chuẩn bị tinh thần” cho từ nhiều năm qua về cái việc đi tu của mình rồi.
Nhưng vào một buổi sáng sớm hôm đó (của tháng 3 mùa xuân năm Ất Dậu 1945) khi thấy ngài với vẻ mặt thành khẩn, trang nghiêm trong chiếc áo tràng màu lam sờn vai, cũ kỹ (tượng trưng cho ý nghĩa là đi tu từ lâu rồi đến nỗi chiếc áo đã bạc màu, sờn vai, cũ kỹ – còn mới đi tu thì áo vẫn mới nguyên) thỉnh mời phụ mẫu ra nơi chốn trung đường (phòng khách) ngự tọa trên chiếc ghế trường kỹ cạnh bàn thờ Phật, ngài quỳ xuống trước mặt song thân, hai tay cung kính dâng lên khay trà mời cha mẹ uống và xin phép cho con đây được thưa lên một điều quan trọng – là trong lòng của ông bà cụ cố đã thấy dâng lên ít nhiều hồi họp lo âu rồi, có lẽ cả hai cụ đều có cùng một ý nghĩ như nhau, đó là:
– Cái chuyện mà vợ chồng chúng ta lo sợ từ lâu, ngày hôm nay nó đến đây rồi!
Sau khi lạy xong ba lạy, ngài mới thưa rằng:
– Con là Mười lớn Nhựt Thăng (trong số năm người con thứ 10 thì ngài là lớn hơn hết) vốn đã có ý nguyện xuất gia từ thuở nhỏ, nhưng vì muốn nấn ná lại để trị lành bệnh cho má nên mới chậm trễ cho đến bây giờ. Ngày nay má đã hết bệnh, mạnh khỏe, an vui không còn đau yếu dây dưa như xưa nữa, nên nay con đối trước cậu má xin được phép xuất gia, làm một nhà sư nơi chốn già lam, Phật tự, vĩnh viễn từ bỏ hết mọi duyên đời. Mong cậu, má thương và vui lòng chấp thuận cho con được tròn ý nguyện để trở thành một người con của Phật.
Tuy rằng trước đó mấy phút đồng hồ, hai ông bà cụ cố cũng đã nghĩ biết rằng hôm nay con mình sẽ thưa lên điều gì rồi – và trong tâm hai cụ cũng đã chuẩn bị tinh thần để “sẵn sàng chiến đấu” với sự xúc động đâu đó xong xuôi hết cả rồi – nhưng khi mới vừa chính tai mình nghe xong cái lời nói “thỏ thẻ” của con xin phép được cạo đầu đi tu, thành một nhà sư nơi Phật tự thì song thân của ngài cũng không sao tránh khỏi được sự bàng hoàng, thất sắc (vì quá cảm xúc). Ôi, cái lời yêu cầu kia của con nó thiệt là êm ái, dịu dàng nhưng mà sao ta nghe tai nó giống y như là tiếng trời long, đất sụp vậy!!!
Lặng người đi một chốc để cho trấn tỉnh, cụ ông mới ngào nghẹn nói rằng:
– Thăng con, cậu đã biết là con có căn đi tu từ lúc con mới chào đời, và khi con lớn khôn lên, cậu cũng biết rằng cái ngày mà con quyết định cắt ái từ thân rồi cũng sẽ phải đến mà thôi. Nhưng bởi vì là cha, thì cậu tránh sao cho khỏi buồn rầu, cậu không dám ngăn cản việc con muốn tu hành theo chí nguyện, nhưng cậu xin con nên nghĩ đến má con mới vừa hết bệnh mà chậm lại thêm một thời gian nữa, để cho cha con ta được kéo dài thêm đôi chút trùng phùng trong cái cuộc đời đầy mong manh, ngắn ngủi này.
Cụ bà thì sụt sùi, sa lệ như mưa, cụ nói:
– Thăng con ơi, con nở bỏ má mà đi tu sao, trong các con thì má thương con nhiều nhất, nhờ có con mà má mới hết bệnh, an vui như ngày hôm nay, nếu như con bỏ má mà đi tu chắc là má sẽ chết đi vì sầu muộn, chớ làm sao chịu nổi sự mỏi mòn nhớ nhung con trẻ.
(Lược nguyên văn trong quyển Tây liên bút lục)… Thấy cha mẹ bi lụy như thếthì ngài cũng không dám nói chi hơn, chỉ lặng im dập đầu cúi lạy thêm 3 lạy nữa rồi lui ra. Và thêm một tháng sau đó, (mặc nhiên đáp ứng lời yêu cầu chậm lại của thân phụ lần sau cùng) ngài vẫn y nhiên sống trong gia đình như thường nhật để cho song thân tạm an lòng cái đã (rồi tính sau).
Thời gian tuy êm đềm trôi qua, nhưng trong lòng của người “Nhựt Thăng Tu sĩ” này chẳng có chút nào bình lặng cả mà chính thật là nó dào dạt phong ba.
Trong quyển “Nhựt Thăng di cảo” có ghi lại một sự việc như sau:
– Khoảng 10 ngày sau đó, một đêm khuya, thời gian vào khoảng giữa canh ba, lúc ấy ngài còn đang nằm mơ màng và niệm Phật thầm trong giấc ngủ bỗng nhiên nghe có tiếng ai gõ cửa. Ngài vội vàng ngồi dậy và đi đền mở cửa ra, thì thấy có một sa di mình khoác áo nhật bình màu lam tuổi khoảng chừng 16, phong cách siêu phàm, dung nghi thoát tục, đang đứng đợi ở bên ngoài.
Ngài lật đật cúi mình đảnh lễ, bái lạy và thưa rằng:
– Bạch Đại Đức ngài từ đâu và có duyên sự chi mà đến nơi con?
Sa di đáp:
– Ta đến trao thư của tôn sư cho người. Nói đoạn, lấy trong người ra một bao thư màu trắng đưa cho ngài và nói:
– Ý của tôn sư đều ở trong đó.
Nói xong chắp tay chào rồi bước ra ngoài đi mất.
Ngài trở vào nhà, mở phong thư ra xem thì thấy bên trong có một tờ giấy vàng, ghi bài thơ sau đây:
Khá khen hiếu niệm chẳng quên lòng,
Mười chín tuổi tròn vẹn ước mong.
Phù tục lợi danh từ đấy lặng,
Sớm đáo thiền môn tách bụi hồng.
Ơn nghĩa mẹ cha đều báo bổ,
Thiên đường, Phật quốc chép ghi công.
Bệnh mẫu từ ngươi nay đã dứt,
Đò neo bến đợi kịp sang sông.
Sau khi thức dậy ngài liền ghi bài thơ ra nơi giấy, suy nghĩ nghĩa lý và biết rằng ngay từ bây giờ mình phải nên sớm lo liệu việc xuất gia chớ chẳng nên chần chờ, trễ nải.
(Bảo Đăng xin lược ý của bài thơ này như sau:
– Câu thứ nhất:
Khá khen hiếu niệm chẳng quên lòng,
(Là ý nói khá khen cho ngươi lòng chẳng lúc nào quên niệm hiếu đối với cha mẹ)
– Câu thứ hai:
Mười chín tuổi tròn vẹn ước mong.
(Là ý nói năm nay 19 tuổi, ngươi đã thực hiện trọn vẹn sự ước mong của mình – là trị lành bệnh cho mẹ, hướng dẫn song thân nhập đạo tu hành, quy hướng Tam bảo)
– Câu thứ ba:
Phù tục lợi danh từ đấy lặng,
(Là ý nói những việc lợi, danh phù phiếm của thế gian từ đây không còn nghĩ tưởng đến nữa (lặng).
– Câu thứ tư:
Sớm đáo thiền môn tách bụi hồng.
(Là ý nói sớm bỏ đời mà xuất gia trở về nơi cửa Phật đi).
– Câu thứ năm:
Ơn nghĩa mẹ cha đều báo bổ,
(Là ý nói ơn nghĩa sinh dưỡng của cha mẹ nay ngươi đều đã báo bổ hết rồi).
– Câu thứ sáu:
Thiên đường, phật quốc chép ghi công.
(Là ý nói Trời, Phật đã chứng minh cái công đức đó của người rồi).
– Câu thứ bảy và tám:
Bệnh mẫu từ ngươi nay đã dứt,
Đò neo bến đợi kịp sang sông.
(Là ý nói bệnh của mẹ ngươi đã hết rồi – đúng như ý nguyện trước kia của ngươi – Vậy hãy mau sang sông qua bên kia bờ đạo đi đừng ở bờ đời bên này nữa. Đò đang neo nơi bến đợi chờ ngươi đó).
Trong những ngày tối hậu sống cùng với gia đình bên cạnh cha mẹ, anh em. Tuy là ngoài mặt gượng gạo giữ vẻ tươi vui, nhưng trong tâm tư của ngài lúc nào cũng tưởng nghĩ đến chốn thiền môn cả, hình bóng của PHẬT ẤN tôn sư Hòa thượng cùng với chư tăng nơi Vĩnh Tràng Tự năm xưa luôn luôn chập chờn trong giấc mộng. Có nhiều khi trong giữa canh vắng đêm khuya, ngài bỗng dưng giật mình tỉnh giấc bởi dường như mới vừa nghe đâu đây có tiếng chuông chùa văng vẳng bên tai.
Và cái nổi lòng tương tư, thiết tha đó được quyển “Tây liên bút lục” ghi lại qua bài thơ sau đây:
NỖI LÒNG TU SĨ
Nghe tiếng chuông chùa bên kia sông,
Thanh âm ngân suốt mấy từng không.
Kêu người du tử lìa cơn mộng,
Hướng chốn thiền môn tách bụi hồng.
Nhớ tiếng chuông chùa bên kia sông,
Đêm ngày con trẻ ngóng cùng trông.
Thầm hỏi mẫu từ ơi có thấu.
Tu sĩ chiều nay CÓ NỖI LÒNG.
Nhựt Thăng Tu sĩ
(Những ngày cuối)
Cái “nỗi lòng” đó nó đôn đốc, nhắc nhở từng ngày, từng giờ, từng phút và rồi cho đến một hôm ngài mới nghĩ rằng:
– Khi xưa Bồ Tát Tất Đạt Đa cũng không thể nào minh chính xuất gia được mà phải âm thầm nửa đêm lén trốn ra khỏi hoàng cung. Ta nay cũng vậy, nếu như không bỏ nhà lén trốn ra đi thì đối với sự trìu mến của “phụ mẫu tình thâm” kia làm sao ta gỡ cho ra được.
Rồi ngài quyết định:
– Sẽ âm thầm bỏ cha, bỏ mẹ, trốn nhà xách gói ra đi, theo tiếng gọi con tim “xuất gia” cùng với người tình “Thiền môn, Phật tự”.
Ngài đem ý định đó ra bày tỏ cùng với anh năm của ngài để nhờ trợ lực và được ông anh sẵn lòng trợ duyên, giúp đỡ. Cả hai anh em đêm nào cũng ra nơi chỗ vắng rù rì to nhỏ, bàn tính “kế hoạch bí mật”.
Đó là:
– Chú sẽ là người “đào tẩu”.
– Anh năm của chú sẽ là người “đồng lõa” cung cấp phương tiện.
Bởi vì chiếu theo sách xưa để lại, hết thảy trong “Tam thập lục kế” thì chỉ có “Tẩu vi thượng sách” mà thôi [Nguyên văn: “Tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng” nghĩa là trong 36 chước thì chỉ có cách “trốn” là chắc ăn nhứt.]
BÁN DẠ ĐỘ HÀ CẮT ÁI, TỪ THÂN.
Rồi ngày ra đi đã đến.
Chiều hôm đó cũng như thường lệ, sau khi cơm nước xong xuôi, ngài hướng dẫn song thân niệm Phật khoảng nửa tiếng đồng hồ và kế đó dâng thuốc lên cho cha mẹ uống cũng như mọi bữa (nhưng đặc biệt trong thang thuốc hôm nay ngài có gia thêm vào trong đó một vị thuốc ngủ nhẹ, để ông bà cụ cố ngủ say, vì ngài e ngại rằng do nơi tình thâm phụ tử, nên có khi đêm nay khiến cho hai cụ trằn trọc không ngủ được mà làm hỏng đi cái sự bỏ trốn của mình chăng).
Đêm đó là ngày gần cuối tháng (âm lịch) nên trời không trăng, tứ bề im lặng, vắng vẻ, thỉnh thoảng chỉ còn nghe vài ba tiếng chó sủa đêm bâng quơ mà thôi. Trời càng khuya, nơi gia đình hết thảy mọi người đều say mơ trong giấc mộng, chỉ có hai người “đồng đội” là ngài và anh năm của ngài là còn nằm thao thức (giả bộ ngủ) trên bộ ván gổ kê gần cửa sổ ở bên hông nhà trên mà thôi.
Tất cả “kế hoạch” đều đã được hoàn tất từ mấy hôm nay rồi. Hành lý của ngài chỉ gồm có một bộ đồ lam cũ và một ít tiền bạc cùng một cái giấy thông hành để tùy thân mà thôi. Theo như chương trình đã định, lúc gà vừa gáy đầu canh tư (khoảng 2 giờ sáng) là hai anh em khẽ lén ngồi dậy, anh năm của ngài ra nhà sau đốt lên ngọn đuốc dầu mù u rồi ra nơi cổng trước đứng chờ, trong khi đó ngài ra trước giường của song thân dập đầu lạy bốn lạy vĩnh biệt rồi se sẻ theo ngõ nhà bếp (ngõ hậu) mà đi.
Trong bút lục có ghi lại giờ phút phân ly này bằng một bài thơ sau đây:
Giã từ cậu má con ra đi,
Ơn đức sanh thành dạ khắc ghi
Bên gối dập đầu con bái biệt,
Lạy chào cha mẹ phút phân ly.
Phân ly con biết nói lời chi,
Xuất gia, xuất giá cũng đồng đi.
Bước chân chẳng dám quay nhìn lại,
E nổi thâm tình lệ ướt mi.
Nhựt Thăng Tu sĩ
(Phút phân ly)
Và rồi hai anh em sánh vai nhau đi trên con đường quê nhỏ, giữa đêm khuya vắng vẻ lạnh lùng dưới ánh sáng chập chờn của ngọn đuốc dầu mù u khi mờ khi tỏ, hướng thẳng ra bến đò của chợ Bình Xuân.
Từ nhà ra bến đò khoảng chừng nửa tiếng đồng hồ đi bộ, nhưng hai anh em vừa đi vừa chạy cho nên chẳng mấy lúc thì ra đến bến đò.
Trước mặt là con sông rộng, dài trăng trắng trong ánh đêm mờ ảo chắn ngang qua, dường như ranh giới ngăn chia giữa hai nẻo đạo, đời. Hai anh em ngậm ngùi ôm nhau một hồi nói lên lời từ biệt, chúc cho nhau tất cả bình yên.
Ngài dặn anh năm của ngài rằng:
– Em đi rồi thì anh ở lại thay em phụng dưỡng cậu má trong lúc tuổi già, nhớ nhắc cậu má ráng niệm Phật đừng quên, chớ nên buồn vì em xa vắng. Xưa nay đời vốn vô thường, có hợp tất phải có tan. Em chỉ có ít lời căn dặn như thế, thôi anh hãy trở về đi cho sớm kẻo cậu má thức giấc và nghi ngờ khi thấy mất bóng hai ta.
Đoạn ngài ứng khẩu đọc lên bài thơ giã biệt như sau:
Từ nay huynh đệ cách đôi nơi,
Xin giã từ anh ở lại đời.
Phụng dưỡng huyên đường trong bóng xế,
Thay người em nhỏ chốn xa khơi.
Đã chết cuộc đời trong nẻo đạo,
Cùng bóng từ quang tỏa ánh ngời.
Bác lái đò ơi qua cho kíp,
Rước kẻ hồng trần bỏ cuộc chơi.
Nhựt Thăng Tu sĩ
(Bến đò Bình Xuân – giã từ anh Năm)
Trong quyển “Nhựt Thăng Tu sĩ di cảo” có ghi thêm lời như sau:
– Sau khi anh năm của ngài về rồi thì ngài ngồi một mình tại bến để chờ đò qua. Bởi vì lúc đó còn khuya quá cho nên không có ai sang sông sớm và chủ đò hãy còn đang ngủ.
Ngài ngồi như vậy trong đêm sương khuya vắng lạnh lùng, một mình, một cảnh chẳng có ai là bạn đồng hành. Sương khuya sa xuống, thấm ướt vai áo bạc màu khiến ngài phải co ro lại cho đỡ lạnh. Ngài nhớ khi xưa, Tất Đạt Đa thái tử cũng phải giữa đêm rời khỏi cung thành tìm phương giải thoát, ta nay là con của Phật nên cũng y theo gương ngài đang đêm trốn nhà bỏ cha, lìa mẹ mà đi tu (nào có khác chi đâu).
Bảo Đăng tôi thấy trong di cảo còn có thêm bài thơ sau đây, có lẽ ngài nương theo ý này mà cảm tác ra không chừng:
Nhớ xưa Bồ Tát Tất Đạt Đa,
Trốn cha, lìa vợ vượt tỳ La.
Sáu năm tu tập nhiều gian khổ,
Đạo quả tròn nên Phật Thích Ca.
Tôi cũng theo gương đức Bạc già,
Bán dạ độ hà trốn mẹ cha.
Vì sợ tử sanh cam lỗi đạo,
Nguyện đấng huyên đường chẳng xót xa.
Nhựt Thăng Tu sĩ
(Đợi chuyến đò ngang)
Và Ngài tiếp tục ngồi đợi trong sương khuya lạnh lẽo như thế cho đến canh năm (khoảng 4 giờ sáng) mới có chuyến đò đầu tiên qua sông, và ngài một mình, một bóng, bơ vơ bước chân lên đò, “đáo qua bỉ ngạn”.
Có bài thơ nữa như sau:
Nương thuyền bát nhã lướt sang sông,
Bỏ cả huyên đường cả ước mong.
Song thân giờ chắc còn an giấc,
Xin hiểu cho con một tấm lòng.
Hướng chốn thiền môn chân bước đến,
Duyên trần xin tạ, việc đời không.
Đường quê mờ khuất sau ngàn sóng,
Khuất hết người quen chốn bụi hồng.
Nhựt Thăng Tu sĩ
(Sang bên kia sông)
Những người quen nơi chốn bụi hồng này là ai đây?
Đương nhiên ta cũng biết là ai rồi.
– Là cha, là mẹ, là anh em, là lục thân quyến thuộc và … còn có thêm, bóng của một người quen khác nơi chốn bụi hồng nữa:
– Đó là bóng của một người “khuê nữ” đáng thương, yêu người trong phận bạc. Một mối tình yêu đơn phương mà kẻ được yêu có lẽ sẽ không bao giờ hay biết cả.
Bởi trong “Tây liên Tùy bút lục” anh năm ngài có ghi lại một bài thơ cuối cùng nơi trang chót của quyển nhật ký như sau:
Tống biệt
Nhựt Thăng huynh
Nếu chẳng chung nhau bước một đường,
Xui chi gặp gỡ khiến lòng thương.
Mấy năm mơ mối tình hương lửa,
Đơn bóng rèm thưa lạnh gió sương.
Cũng bởi em yêu người “thoát tục”,
Nên đời mang nặng khổ đơn phương.
Sầu cho mộng ước đầu dang dở,
Ôm khối tình si luống đoạn trường.
(TTKL)
Khi Bảo Đăng tôi xem đến cuối quyền bút lục, và đọc được bài thơ này xong, chính mình cũng thấy bòng bùi ngùi, cảm thương cho một người hồng nhan phận bạc. Sau đó Bảo Đăng tôi có hỏi ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang nguyên nhân vì sao mà trong quyển bút lục lại có bài thơ “Tống biệt” này.
Nó từ đâu đến, vì sao mà có và hơn nữa lại được ghi vào trong quyển bút lục này?
Đại đức đáp rằng:
– Trước kia (vào khoảng năm 1970) lần đầu tiên khi xem quyển bút lục và đọc đến bài thơ này, thì thầy cũng có một thắc mắc y như con vậy. Sau đó thầy mới đem sự việc này hỏi lại thân phụ của thầy (y như lời) con hỏi thầy ngày hôm nay, và được thân phụ của thầy giải đáp như sau:
– Nguyên sau ngày cố Hòa thượng đi rồi, mấy tháng sau đó, do vì nhớ em nên anh năm của ngài mới soạn lại các áo quần, sách vở (của ngài), đem cất để làm kỷ niệm. Lúc mở cặp táp ra thì trong đó chỉ có ba bốn cuốn tập và một vài quyển sách học khi ngài thi bằng Thành Chung còn sót lại mà thôi.
Vì nhớ em và cũng vô tình nên anh năm ngài lật ra xem, ban đầu cũng không lưu ý gì cho mấy nên chỉ xem sơ qua mà thôi. Mấy lần sau đó nhân có thời giờ rảnh rang nên mới xem kỹ và ngắm lại các nét chữ viết của em mình để “tìm xem kỷ niệm” thì bỗng trong quyển vở học của ngài rớt ra một phong thư, mà phong thư đó vẫn còn niêm kín chớ chưa có mở ra (Có lẽ ngài nhận được nó lúc còn ở trên Mỹ Tho và rồi sau đó hoặc là ngài quên bẵng đi hay là ngài không thèm quan tâm tới nữa cũng không chừng).
Bìa ngoài như có đề tên người gởi là Tạ Thị Kim Loan (TTKL) đây rõ ràng là tên của mỹ nhân (có lẽ vậy) mà! Cô này là ai nhỉ, là bạn, là người quen của em mình lúc còn ở học trên chợ Mỹ chăng? Ủa, mà sao thư vẫn còn nguyên chưa mở ra xem nhỉ?
Như vậy là em mình chắc không bao giờ biết ở trong thơ đây người đẹp (?) TTKL viết điều chi rồi, bây giờ “chú nó” đã đi tu, có lẽ đã cạo đầu trọc và trở thành một “tiểu hòa thượng” rồi cũng không chừng, thôi thì ta hãy “mạn phép” chú nó mở ra xem, coi cho biết có “cái gì” ở trong ấy.
Rồi anh năm của ngài khai thư ra xem, và khi xem xong thì chính người cũng phải chắc lưỡi mấy cái mà than thở rằng:
– Hỡi ôi! thiệt là tội nghiệp. (Chớ phải chi ta là chú nó thì hay biết mấy!)
Thấy bài thư ấy hay và đượm nhiều tình ý đau buồn, thương cảm có liên quan đến em mình, nên anh năm của ngài viết luôn vào quyển nhật ký để lưu hậu.
Theo thiển ý của Bảo Đăng tôi nghĩ thì chắc có lẽ TTKL tiểu thơ “yêu” ngài lắm, nhưng chỉ là yêu đơn phương mà thôi, còn ngài vì tâm trí đã đặt nơi chốn Phật đài, và con tim cũng đã có mang bóng hình của Phật Tổ rồi thì ngài đâu còn để ý gì đến ai ở trên cõi đời này nữa, kịp đến khi tiểu thơ TTKL biết ngài sắp sửa hồi gia để trị bịnh cho mẹ xong rồi đi tu luôn, thì tiểu thơ lấy làm buồn khổ lắm vì biết là từ đây đã vĩnh biệt “người yêu trong mộng” rồi nên mới gởi cho ngài bài thơ: “Tống biệt Nhựt Thăng huynh” (Vĩnh biệt anh Nhựt Thăng) đấy chăng? Nhưng bài thơ hay như thế mà cũng không được ngài xem đến nữa (dầu chỉ một lần thôi).
Ôi! tình yêu là đau khổ, đau khổ.
Và đời cũng thế, chỉ là một chuỗi khổ đau!
Đến đây trước khi bước qua một chương khác, tức là chỉ thuần ghi lại những sự việc kể từ khi ngài xuất gia, hành đạo, nhập thất và viên tịch (vào năm Nhâm Thân 1992) mà thôi. Bảo Đăng tôi thấy mình cũng phải nên ghi thêm vào đây một vài sự việc trong gia đình và sự đau khổ của ông bà cụ cố, sau khi ngài đã “xuất gia” và “vu quy” theo Phật rồi.
(Theo lời kể lại của cụ Tây Liên đã thuật cho con là ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang nghe và được thầy ghi bổ túc thêm ở phần sau chót của quyển lút lục).
(Lược thuật).
… Sau khi (thức giấc) và biết con mình đã “xuất giá tòng phu” ý quên đã “xuất gia tòng Phật” rồi thì ông bà cụ cố buồn lắm.
Ban đầu thì hai cụ và mọi người trong gia đình ai cũng đều nghĩ rằng chắc có lẽ là ngài lên Mỹ Tho và trở về chùa Vĩnh Tràng lại để xuất gia cùng với Hòa thượng Phật Ấn tôn sư nên cũng không mấy lo cho lắm. Bởi vì trước kia khi ngài còn học ở trên chợ Mỹ tho thì cụ ông thỉnh thoảng cũng có đến chùa thăm con (để mang thêm cho ngài tiền học phí hoặc xây xài mua sắm sách vở, giấy mực) … cái việc đi đi, về về như thế (trong suốt hơn bốn năm trường) nên cụ ông cũng đã quen thuộc với mọi đường đi nước bước rồi. Cho nên hôm nay, tuy biết rằng con của mình nửa đêm đã âm thầm trốn nhà đi tu rồi nhưng cụ ông cũng không đến nỗi nào bi lụy và lo lắng thái quá. Bởi cụ nghĩ rằng thôi cũng không sao, để vài tuần nữa mình thu xếp mọi việc xong xuôi rồi (sẽ cùng má nó) lên Mỹ Tho, đến chùa Vĩnh Tràng thì sẽ gặp lại con, việc đâu cũng còn có đó. Dầu rằng nó lén trốn nhà, bỏ cha mẹ mà đi tu không một lời từ giã, nhưng không sao, vì “ta” đã biết chỗ ở của “nó” rồi thì “nó” chạy đâu cho thoát chớ.
(Vì khi gặp lại “nó’ rồi thì ta và “má nó” sẽ tìm đủ mọi cách để năn nỉ, khóc lóc cho thật nhiều hoặc làm bộ té xỉu … thì “nó” là một đứa con có hiếu, có lẽ nào nó làm ngơ mà không theo ta trở về nhà hay sao?)
Do vì nghĩ như vậy cho nên khoảng nửa tháng sau, hai cụ cố áo quần, khăn dù tươm tất cẩn thận, rời Bình Xuân lên xe đò nhắm hướng Mỹ Tho và chùa Vĩnh Tràng trực chỉ.
Nào dè khi đến nơi rồi thì không thấy ngài ở nơi đó. Hỏi Hòa thượng và chư tăng ni trong chùa thì ai nấy cũng đều chưng hửng hết. Hai cụ cố thì tưởng ngài đã về chùa nửa tháng nay rồi, còn Hòa thượng và chư tăng ni thì cử tưởng là ngài vẫn còn ở nhà trị bệnh cho bà cụ (vì cách đây hơn tháng khi ngài lên Mỹ Tho bổ thuốc cho hai cụ thì ngài có ghé ngang qua thăm chùa, có ai nghe ngài nói gì về việc bỏ nhà đi tu đâu).
Nay vỡ lẽ ra thì ai nấy cũng đều bí “HỐ” hết mà cùng nhau té ngửa, té nghiêng, kêu “trời đất ơi” liền miệng … giờ biết nó ở đâu mà tìm – lúc này là lúc mà ông bà cụ cố đau khổ và khóc nhiều nhất, bởi vì cái hy vọng cuối cùng (để bám víu) giờ cũng đã tiêu tan.
(Thiệt là “ai đau khổ” hết sức)
Hai cụ không biết làm sao hơn đành phải đảnh lễ Hòa thượng, buồn thầm, khóc lóc mà trở về.
Không một ai biết ngài đã đi đâu và ở tại chốn nào hết cả.
Đúng là cái cảnh:
Đường mây bặt dấu chim hồng,
Dặm ngàn khuất dạng, còn trông chi tìm.
Hỏi mây, mây cũng lặng im,
Hỏi trăng, trăng cũng an điềm mặc nhiên.
Sân chiều trời ngả bóng nghiêng,
Nhựt thăng biết đã về miền nơi nao!
Cả kêu rằng hỡi trời cao,
Con tôi giờ đã ra sao, chốn nào?
Nguyễn Văn Hương
(Nhớ con)
Và rồi thời gian tuần tự trôi qua …
Gần suốt cả năm trời sau đó, cụ bà mỗi lần nhắc đến cố Hòa thượng của chúng ta là cụ bà sụt sùi nhỏ lệ nhớ thương.
Còn cụ ông vì là nam nhi cho nên cứng cỏi hơn một chút, nghĩa là cụ ông chỉ buồn buồn vậy thôi chớ không có khóc như cụ bà vậy. Mà mỗi lần buồn như thế là cụ ông lấy áo cũ của ngài ra để ở trước mặt mà ngó, ngó đã rồi uống nước trà giải buồn, có khi uống hết bình trà này qua bình trà khác (mà cũng vẫn chưa đã khát nữa).
Trong “Tây liên bút lục” có ghi lại bài thơ sau đây:
Con đi áo để lại nhà,
Mỗi ngày nhìn ngắm lòng già quặn đau.
Buồn trong ngõ trước vườn sau,
Nhựt Thăng giờ ở nơi nào hỡi con?
Sớm hôm lòng dạ héo hon,
Chờ mong tin nhạn mỏi mòn nhạn ơi.(*)
Sầu này biết thuở nào vơi!
Nguyễn Văn Hương
(Chờ đợi tin con)
(*) Chờ trông tin nhạn: Ý nói là chờ đợi tin thư. Vì hồi xưa người ta dùng chim nhạn để đưa thư, nên trong cổ thi gọi “tin thư” là “tin nhạn”.
Chẳng hạn như:
Nhạn ơi mang cánh thư này nhé,
Chuyển đến dùm ta khách nẻo xa.
Mấy năm cách biệt tin ngày vắng,
Ngắm khói hoàng hôn chợt nhớ nhà.
Hoặc là:
Ngày sáu khắc mong tin nhạn vắng,
Đêm năm canh khắc khoải mộng hồn.
Vv….
Có những đêm cụ ông ngồi sù sụ một mình với ngọn đèn chong đốt bằng dầu hôi để ở trước mặt và chiếc áo cũ của con mình mà chìm vào trong suy tư, trầm tưởng suốt cả mấy canh dài không chịu vào nhà trong an giấc.
Ở nhà ai cũng sợ cụ ông bệnh đồng xúm lại giải khuyên để cho cụ ông nguôi bớt đi phần nào sầu khổ.
(Theo Bảo Đăng nghĩ, chẳng thà mình buồn khổ quá thì mình cứ việc khóc lớn lên cho nó vơi đi, chớ còn im lặng như vậy thì nó dày xéo tâm can khổ còn gấp bội hơn nữa. Không biết quý vị nghĩ sao?)
Có một lần đó, nhân lúc cụ ông bận việc đi vắng, người con thứ năm mới đem cái áo cũ của ngài (mà cụ ông vẫn thường để ở trước mặt ngắm mỗi khi nhớ con) ra giặt vì sợ để lâu quá nó có mùi hôi. Thì thấy trong chiếc áo ấy rơi ra một tờ giấy xếp kỹ lại, trên có ghi mấy bài thơ “liên khúc” mà cụ ông sáng tác sau đây:
BUỒN KHÓC NHỚ CON
Đêm nay sao khiến tôi buồn quá,
Trước ngọn đèn chong có một mình.
Rỉ rả ve sầu vang tiếng gọi,
Tỉ tê giọng dế suốt đêm thanh.
Ngoài hè gió thổi nghe xào xạt,
Trong trướng(*) không an giấc mộng lành.
Trằn trọc thâu đêm không nhắm mắt,
Biết ai mà tỏ nổi lòng mình.
Lòng mình, mình biết chỉ mình hay,
Tâm sự này bày tỏ với ai.
Lặng lẽ mà nghe lòng thổn thức,
Âm thầm chịu đựng mấy ai thay
Nhớ con dấn bước hà phương tá,(**)
Để khổ lòng già chịu đắng cay.
Sầu nọ, nổi kia thêm chất ngất,
Khôn ngăn giọt lụy suốt đêm dài.
Đêm dài thao thức nổi sầu quanh,
Thơ thẩn, thẩn thơ dưới bức mành.
Nghĩ nhớ trẻ thơ lòng đứt đoạn,
Bao giờ gặp lại hỡi cao xanh?
Thân yếu, tuổi già thêm quạnh vắng,
Một mình sầu khổ suốt năm canh.
Con hởi vì sao đành vội sớm?
Lá mới xanh non nở tách cành!
Tách cành đành bỏ mẹ cùng cha,
Canh vắng đường khuya khổ lắm mà.
Vì sợ tử sanh con lỗi đạo?
Hướng về Phật tự lướt xông pha.
Bỏ quê, bỏ xứ, bỏ người thân,
Lìa hết thương yêu, dứt ruột rà.
Cúi lạy Phật đà xin đoái tưởng,
Độ người qua khổ hải trầm kha.
Nguyễn Văn Hương
(Đêm buồn khóc nhớ con xa)
(*) Trướng: là chỗ nằm, chỗ ngồi, chỗ ngơi nghỉ, chỗ văn phòng làm việc.
(**) Hà phương tá: tức là ở đâu, ở nơi nào. Câu này ý nói: nhớ con không biết con đi nơi phương nào.
Và rồi một ngày kia…
Gần hai năm trời sau đó, cánh nhạn chờ mong từ nơi phương trời xa xôi nào kia bỗng dưng bay trở lại và hai cụ cố nhận được một bức thư của ngài gởi về thăm viếng, tạ lỗi cùng khuyên nhắc song thân và gia đình tu niệm.
Trong thư ngài cũng không nói là ngài đang ở đâu, hay làm gì hết, mà chỉ thuần có các lời thăm hỏi khuyên nhắc và kèm theo một bài thơ sau đây:
Tụ tán xưa nay lý vẫn thường,
Mất còn, tan hợp bận chi thương.
Bình tâm nghĩ lại đừng bi lụy,
Năm tháng lạnh lùng bạc tóc sương.
Nếu có nhớ con xin niệm PHẬT,
Phát lòng quy hướng chốn Tây Phương.
Nguyền cho cậu, má tâm thường nhớ,
Cực Lạc là quê chỗ náu nương.
THÍCH THIỀN TÂM
Lúc đó cả nhà mới biết bấy lâu nay ngài đã xuống tóc và trở thành một ông “Thầy tu chánh hiệu” với pháp danh là: THÍCH THIỀN TÂM tăng sĩ rồi.
Cụ ông mỗi ngày đều xem qua bài thơ ấy, cứ mỗi lần xem xong là cụ ngậm ngùi nhỏ lệ, uống trà, (cho tan buồn) rồi mặc áo tràng vào và lễ mễ ra trước bàn thờ, quỳ xuống niệm Phật, tu theo lời dặn của đứa con yêu:
Nếu có nhớ con xin niệm Phật,
Phát lòng quy hướng chốn Tây Phương.
Cụ ông qua đời 9 năm sau đó (vào khoảng cuối năm 1954)
– (Lúc đó ĐĐ. bổn sư Thích Hải Quang mới vừa lên được 9 tuổi).
– Đại Đức Liên Du THÍCH THIỀN TÂM (Trí Hiền) cũng vừa tốt nghiệp xong chương trình Cao Đẳng PHẬT học tại PHẬT Học Đường Nam Việt (Sài Gòn) với hạng “Tối ưu”.
Và ngài về chịu tang cha…
(Trong quyển “Tây liên tùy bút lục” có ghi lại những ngày cuối của cụ ông khi còn nằm trên giường bệnh như sau:
– Cậu rất là tỉnh táo, tay lần chuỗi niệm Phật. Thỉnh thoảng cậu nói:
– Phải chi có thằng THĂNG nó về lúc này chắc cậu vui lắm...
Trước khi qua đời, cậu nói nhớ “Thầy Mười” và để lại bài thơ này, dặn nếu sau “Thầy Mười” (*) có về thì trao lại.
[(*) Thầy Mười: là cố Hòa thượng – vì trong gia đình ngài thứ mười, cho nên gọi là “Thầy Mười”.]
Và sau đây là bài thơ cuối cùng của cụ ông.
Bảo Đăng xin ghi lại ở nơi đây (để mà thương cho tình cảm của một người cha):
Chín năm cách biệt đứa con yêu,
Đếm bước vườn sau có những chiều.
Ngắm áo con thơ lòng nức nở,
Lệ sầu tuôn đổ biết bao nhiêu!
Lắm khi khóc lặng trong niềm nhớ,
Gan ruột dường như bị đốt thiêu.
Con ở phương xa giờ có biết?
Phút cuối cha nghe dạ nhớ nhiều.
Nguyễn Văn Hương
(Phút cuối đời tôi)
PHẦN II
A. Giai đoạn chánh thức xuất gia
Đây nhắc sơ lại…
Sau khi cố Hòa thượng giữa lúc đêm khuya dập đầu cúi lạy, bái biệt song thân vẫn đang còn mơ màng trong giấc điệp, khăn gói lén trốn ra khỏi nhà, và kế đến là giã từ người anh thứ năm thân thiết nhất tại nơi bến đò Bình Xuân rồi, với MỘT thân, MỘT bóng, và MỘT tay xách nhỏ mà bên trong chỉ chứa vỏn vẹn có MỘT bộ đồ màu lam ngắn cũ, MỘT mình bước lên đò qua sông trong gió lạnh đêm khuya của một ngày vào cuối mùa xuân năm Ất Dậu (1945).
(Thật là tội nghiệp cho “thân gái dặm trường” giữa chốn trời khuya – nhưng ở đây thì không phải là thân gái mà phải đổi lại là thân “Trượng phu dặm trường” nơi chốn đường xa).
Ngài đáp chuyến xe đò sớm nhứt chạy lộ trình từ Bình Xuân lên Mỹ Tho, Chợ Gạo. Trên chuyến xe này chỉ có một mình ngài là người thanh niên trẻ tuổi, ngoài ra còn lại đều là các khách thương buôn (bạn hàng) có thương vụ cần thiết xuôi ngược mỗi ngày trên con đường này mà thôi.
Xe chạy đi trên con đường “lộ làng” gồ ghề, lồi lõm nên có khi nghiêng qua, ngã lại, xốc xuống, xốc lên (những thập niên của khoảng thời gian này, ngoại trừ các đường liên tỉnh lộ thì được trải đá, lót nhựa êm bằng, đúng tiêu chuẩn, còn các đường lộ của quận, của làng thì chỉ trải bằng đất đỏ (đá ong) hoặc đá xanh cùng với đất bùn mà thôi chớ không có lót nhựa, cho nên lâu ngày bị nắng mưa dầu dải tạo ra nhiều lỗ trũng, gồ ghề, vì vậy mà đường xá bị đầy các vũng nước khi trời mưa và bụi mù khi trời nắng), tựa như đang ngồi trên lưng ngựa, khiến cho ngài liên tưởng đến khixưa Tất Đạt Đa thái tử giữa đêm khuya, bỏ vương cung ngồi trên lưng ngựa Kiền Trắc trốn ra khỏi chốn hoàng thành.
Còn mình thì bây giờ đây cũng đang ngồi trên con ngựa sắt già (bởi vì chiếc xe đò nhỏ này quá ư cũ kỹ) lìa khỏi quê nhà là nơi cắt rún, chôn nhau vào MỘT buổi sáng tinh sương, với MỘT tấm lòng và MỘT cuộc đời “không MỘT vật” của MỘT người tăng sĩ.
(Nghĩ mà thương cho cố Hòa thượng, cái gì cũng có một hết, cho chí đến sau này khi ngài về Đại Ninh ẩn tu đầu tiên cũng chỉ có một mình).
Con đường này suốt sáu, bảy năm qua ngài đã thường xuyên đi đi, về về (bắt đầu từ khi xuống Mỹ Tho học cùng với các thời gian sau đó là đi về thăm gia đình để điều trị bệnh tình cho mẹ, và hốt thuốc cho song thân, nhất là hai năm sau cùng trực tiếp trị bệnh cho thân mẫu thì ngài thường xuyên đi, về trên con đường này lắm) nên không có gì là xa lạ hết, nhưng hôm nay sao bỗng dưng ngài lại thấy nó dường như có một vẻ ảm đạm, đơn buồn!
Ngài ngồi trong xe và ngắm nhìn ra quang cảnh hai bên đường đang ẩn hiện mờ mờ qua làn sương sớm của buổi rạng đông mà trong lòng tự nghĩ:
– Mấy lúc trước kia, trên con đường này ta vẫn thường xuyên có đi, có về nên gọi là “Hữu lai, hữu khứ” còn lần này thì cũng vẫn trên con đường cũ, ta chỉ có đi mà không có về nên gọi là “Hữu khứ, vô lai” (hoặc nếu có về chăng đi nữa thì chắc là cũng còn lâu lắm).
– Con đường này trước kia đã từng đưa lối cho ta đi đi, về về nơi chốn tại gia ràng buộc, đầy dẫy tục trần. Ngày hôm nay, hỡi người “bạn đường” (lộ) thân mến kia ơi, ta cũng nhờ ngươi đưa lối cho ta đi về nơi chốn thiền môn, lìa xa tục lụy, bỏ cuộc chơi trong chốn bụi hồng mà an điềm trong cuộc sống “giai không”.
Vậy thì thôi, bay giờ đây ta chào và giã từ ngươi nhé, hỡi người “bạn đường” (lộ) mà đã cùng ta kết nghĩa “kim lan” suốt sáu bảy năm trời xuôi ngược đến đi.
Bảo Đăng tôi tìm thấy bài thơ này trong phần gần chót của quyển “Nhựt Thăng Tu sĩ di cảo” như sau:
Thôi chào ngươi nhé bạn đường ơi,
Trần thế nay ta bỏ cuộc chơi.
Một bước chân đi không trở lại,
(Tráng sĩ sang sông không trở lại),(*)
Phật tự từ đây định chốn nơi.
Phai bóng người thân, phai tục lụy,
Dặm nghìn quê cũ tách xa khơi.
Đem thân nương nép tòa sen thắm,
Rực ánh hồng quang tỏa khắp nơi.
Nhựt Thăng Tu sĩ
(Trên đường xuất gia)
(*) Tráng sĩ sang sông không trở lại: Câu này lấy sự tích của Tráng sĩ Kinh Kha vào đời Đông Châu, từ nơi nước Yên mang gươm qua sông Dịch Thủy ám sát vua Tần Thỉ hoàng, việc không thành, Kinh Kha bị giết luôn trên điện không trở về nữa. Đây ngài ngụ ý một khi đã xuất gia rồi là quyết không quay trở lại gia đình (Một bước chân đi không trở lại).
Và rồi thời khắc từ từ trôi qua …
Chiếc xe đò cũ kỹ hom hem lìa khỏi lộ làng, tiến vào trong tỉnh lộ Gò Công – Mỹ Tho – Chợ Gạo. Đường xá bắt đầu thấy êm ái hơn cho nên con ngựa sắt già nua kia chỉ còn lắc lư nhè nhẹ như ru hồn người tu sĩ cô đơn vào trong mộng đẹp “thoát trần”.
Bên ngoài, bầu trời từ mờ sương đã chuyển dần sang sáng trắng, nơi phương Đông đã thấy ửng ánh dương hồng và rồi vầng dương từ từ lố dạng, ánh nắng ban mai đầy sức sống bắt đầu chan hòa trên khắp nội cỏ, ngàn cây.
Một ngày mới bắt đầu…
Và cuộc đời của người “Nhựt Thăng Tu sĩ” nay cũng sẽ bắt đầu…
… Trên một con đường mới khác…
Chiếc xe ngừng lại tại bến Mỹ Tho…
Ngài một bóng cô đơn, lủi thủi sang xe hướng về nơi định sẵn.
Không bao lâu thì vào đến quận Xoài Hột.
Ngài xuống xe, đếm bước độc hành trên con đường mòn nhỏ dẫn dần về nơi chốn thiền môn…
Trong di cảo có bốn câu thi sau đây:
Mỗi bước mỗi gần thêm cảnh tịnh,
Xa lìa tăm tối, lánh vô minh.
Trần duyên rày dứt, người quen mất,
Tạ chốn bụi hồng, đáo Ngọc Kinh (*)
Nhựt Thăng Tu sĩ 1945 (Ất Dậu)
(Hướng chốn am thiền)
(*) Ngọc Kinh: ý nói là nơi Phật ở.
(Bảo Đăng xin lược ý của bài thơ này như sau:
– Cứ mỗi bước chân đi là lìa xa thêm cảnh vô minh, tăm tối để đến gần thêm nơi cõi tịnh (tức là nơi giải thoát)
Từ đây ta nguyện dứt mọi duyên trần, quên mất các kẻ quen người xưa, từ tạ chốn bụi hồng mà đến thẳng nơi miền Phật ngự).
Chẳng mấy chốc cổng thiền môn hiện ra trước mắt, đồ sộ uy nghiêm với cổng Tam quan cổ kính trên có tấm biển vàng ghi mấy chữ đỏ to:
“SẮC TỨ LINH THỨU TỰ”
Ngài dừng bước, bỏ nón ra, quỳ xuống kính cẩn dập đầu cúi lạy.
Có thơ rằng:
Sắc Tứ Linh Thứu chính là đây,
Phú quý, vinh hoa chẳng đắp xây.
Nhựt Thăng Tu sĩ từ nay quyết,
Bỏ đời an ẩn chốn am mây.
Nhựt Thăng Tu sĩ 1945 Ất Dậu
(Đến lễ cổng chùa)
Đoạn ngài đứng lên và gọi lớn:
– Thầy ơi, xin mở cửa dùm, con là Nhựt Thăng nay đã đến đây rồi.
Vị tăng trị sự ra mở cổng, chào mừng rằng:
– Ủa, đạo hữu Nhựt Thăng vừa mới đến đó sao, hãy vào gấp đi, Hòa thượng mấy hôm nay có lòng trông đợi.
Ngài cúi đầu đảnh lễ, theo chân vị tăng trị sự bước thẳng vào chùa.
Phía sau lưng ngài, cánh cổng thiền môn từ từ khép lại, và khép luôn cả cuộc đời của Tu sĩ Nhựt Thăng.
Sau đây là bốn câu thơ cuối cùng trong quyển Nhựt thăng Tu sĩ di cảo.
Từ đây tôi chẳng phải là tôi,
Mà cả trần gian cũng thế thôi.
Họ NGUYỄN, NHỰT THĂNG rày đã chết,
Sau cổng thiền môn đóng kín rồi.
Nhựt Thăng Tu sĩ, Ất Dậu 1945
(Chôn kín đời tôi)
Bảo Đăng tôi xin lược ý bốn câu thơ “siêu tuyệt” này để cho quý đọc giả hiểu rõ thêm ý văn của cố Hòa thượng.
Câu thứ nhất:
Từ đây tôi chẳng phải là tôi,
(Là ý nói đã dứt NGÃ chấp – Tức là không còn chấp ta nữa)
Câu thứ hai:
Mà cả trần gian cũng thế thôi.
(Là ý nói dứt luôn cả Ngã sở – tức là những cái mà ta tưởng là thuộc về ta, của ta).
Câu thứ ba và tư:
Họ NGUYỄN, NHỰT THĂNG rày đã chết,
Sau cổng thiền môn đóng kín rồi.
(Là ý nói từ đây nơi chốn thiền môn, không còn sử dụng tên Nhựt Thăng, họ Nguyễn nữa mà là tên (sau này khi xuống tóc quy y) Thiền Tâm, họ Thích mà thôi).
B. THẾ PHÁT – QUY Y
THÍCH MÔN CHI TỬ.
(Xuống tóc quy y làm con của Phật).
Sau khi nhập tự rồi, (thì cái việc sắp xếp nơi ăn, chốn ở, cùng với các lời dặn về thanh quy (quy củ trong chùa) v.v… đó là việc đương nhiên, xin miễn lược ra để tránh dài dòng). Sáng ngày hôm sau vị chấp tự tăng hướng dẫn ngài tới đảnh lễ Viện chủ và dâng trình lên Hòa thượng trụ trì Sắc Tứ Tự thơ giới thiệu của Hòa thượng PHẬT ẤN sau đây:
Mỹ Tho,
Vĩnh Tràng Tự – THÍCH PHẬT ẤN Hòa thượng
Kính gởi:
Sắc Tứ, Linh Thứu Tự – THÍCH THÀNH ĐẠO
Đại lão Hòa thượng pháp huynh,
Nam mô A Di Đà Phật
Kính bạch pháp huynh tôn giả,
Người mang thư này tên NHỰT THĂNG, họ NGUYỄN sanh quán tại xã Bình Xuân, huyện Hòa Đồng – tỉnh Gò Công. Tuổi Ất Sửu (1925), cha tên Nguyễn Văn Hương, mẹ tên Trần Thị Dung – năm nay vừa đúng 20 tuổi.
Là một tục gia đệ tử của tôi pháp danh là Trí Hiền, vì muốn tránh chướng duyên ngăn cản và truy tìm của song thân cùng với gia đình trên đường xuất gia tu học cầu giải thoát, nên được tôi chấp nhận cho phép y rời Vĩnh Tràng bổn tự đến nơi pháp huynh và quý tự để xin xuống tóc xuất gia.
Ngưỡng mong pháp huynh thương xót lấy Trí Hiền và vì tôi mà mở lòng từ bi, chấp nhận làm Thế độ sư và y chỉ sư để cho y được tăng thượng thêm pháp duyên trên con đường tu học hiện tại và tương lai.
Nam mô từ mẫn cố, đại từ mẫn cố.
Bái bạch.
Trụ trì Vĩnh Tràng Tự
Hòa thượng THÍCH PHẬT ẤN
Sau khi xem xong thư giới thiệu rồi, Đại lão Hòa thượng Sắc Tứ Linh Thứu Tự lấy làm hoan hỷ, hứa khả và chọn ngày để xuống tóc, xuất gia.
(Đến đây, qua lời kể lại của ĐĐ. Bổn sư THÍCH HẢI QUANG, Bảo Đăng tôi xin lược thuật lại về việc này như sau:
Theo lời cố Hòa thượng kể lại cho cháu ruột và cũng là đệ tử, ĐĐ. bổn sư Thích Hải Quang biết:
– Trong những lần bổ thuốc sau chót cho cụ bà thì ngài có đến đảnh lễ Hòa thượng bổn sư Phật Ấn nơi Vĩnh Tràng tự và trình bạch về việc mẹ đã lành bệnh cùng với ý định xuất gia của mình.
Hòa thượng có hỏi:
– Con thấy ba má con có vui lòng và đồng ý để cho con đi tu không?
– Dạ, bạch Hòa thượng không, chắc thế nào cũng bị khóc lóc, bi thương ngăn cản vì con thấy phụ mẫu của con nặng tình với con lắm. E rằng ngày con thưa xin được chánh thức xuất gia có nhiều trở ngại.
Hòa thượng hỏi:
– Vậy con tính làm sao nói cho ta nghe thử.
Ngài đáp:
– Bạch Hòa thượng con định nửa đêm lén trốn nhà và ba má, con đi xuống đây, Hòa thượng xuống tóc cho con xuất gia, đặt ba má con vào trong việc đã rồi, thì dầu cho có muốn ngăn cản cũng không được.
Hòa thượng cười nói:
– Việc nửa đêm lén trốn nhà, bỏ cha mẹ đi tu thì được vì xưa kia Phật và một số chư vị Tổ sư cũng đều có làm y như vậy. Còn cái việc muốn xuống tóc tại đây để đặt ba má con trong sự đã rồi thì không được.
Ngài mới hỏi:
– Bạch Hòa thượng sao vậy?
Hòa thượng đáp:
– Vì ba má con sẽ xuống đây tìm kiếm, khóc lóc, hay làm bộ té xỉu lên, xỉu xuống thì khó cho ta mà cũng khó cho con. (Thiệt là một lão Hòa thượng có nhiều kinh nghiệm về việc này hết sức!)
Ngài hỏi:
– Bạch Hòa thượng, vậy thì làm sao cho ổn?
Hòa thượng đáp:
– Việc cũng không có gì khó, đó là phải trốn đi tới một chỗ khác, chỗ mà xưa nay ba má con chưa từng nghe biết hay lui tới lần nào, vậy thì mới xong. Như xưa kia Thái Tử Sĩ Đạt Ta rời khỏi nước nhà qua nơi xứ khác mới yên ổn tu được, chớ nếu ở trong xứ thì vua cha đem quân tới rước về, làm sao tu?
Ngài hỏi:
– Bạch Hòa thượng, vậy con phải đi đâu đây?
Hòa thượng đáp:
– Cũng ở trong tỉnh Mỹ Tho này, có chùa Sắc Tứ Linh Thứu, trụ trì chùa đó là bậc đàn anh của ta, để ta gởi con tới đó thì xong … Vậy bây giờ con cứ về đi, ở trong gia đình bình thường coi như không có gì hết, chừng nào muốn “tẩu thoát” thì ghé qua ta mà lấy thư giới thiệu.
Y theo kế hoạch đó, cho nên trong lần bổ thuốc sau cùng cho phụ mẫu thì ngài có đến Hòa thượng bổn sư thưa trước ngày đi và nhận từ nơi bổn sư bức thư giới thiệu (ở trên).
Còn Hòa thượng Phật Ấn thì mấy hôm sau đó ngài mới tự thân đi xuống Xoài Hột, gặp riêng Hòa thượng Thành Đạo bàn tính và gởi gấm xong xuôi đâu đó hết rồi.
Vì vậy mà khi cố Hòa thượng của chúng ta đang đêm đào tẩu khỏi chốn “hoàng cung” của song thân thì ngài trực chỉ đến Sắc Tứ Linh Thứu tự luôn chớ không có ghé qua chùa Vĩnh Tràng lại.
Đến nơi rồi ngài kêu cửa và vị tăng tri sự ra đón tiếp như vừa kể ở phần trên …)
Và rồi … hơn một tháng sau …
Vì xét thấy ngài đã hội đủ hết các điều kiện xuất gia sau đây:
– Có thư gởi gắm và giới thiệu của Hòa thượng bổn sư (Thích Phật Ấn, Vĩnh Tràng Tự).
– Năm tuổi đầy đủ (đúng 20 tuổi)
– Đủ tướng trượng phu.
(Ở trong Phật pháp, từ 20 tuổi trở lên và 70 tuổi sắp xuống (tức là tuổi từ khoảng 20 đến 70) thì được gọi là Trượng phu, vì ở tuổi này có thể đủ sức để chịu đựng được 10 việc sau đây: LẠNH, NÓNG, GIÓ, MƯA, ĐÓI KHÁT, GIỮ GIỚI, ĂN NGÀY MỘT BỮA (Ngọ), NHẪN CHỊU ĐƯỢC CÁC LỜI NÓI HUNG ÁC, KHÔNG SỢ ĐỘC TRÙNG (như sâu bọ, rắn rít, bò cạp, và các loại độc vật khác v.v …).
– Đã từng có ở chùa (Hơn bốn năm).
– Hiểu biết kinh điển, giáo lý.
– Rành rẽ và thông thuộc các nghi thức công phu, bái sám căn bản nơi chốn thiền môn.
– Lý lịch, căn cước, gốc tích phân minh, rõ ràng (đầy đủ tên cha mẹ, và sanh quán, chứng tỏ đây là một hảo nhân).
Vả lại vì cũng đã chọn được ngày lành, tháng tốt và đầy đủ được hết các duyên nên Trụ trì Sắc Tứ Linh Thứu Tự, Đại lão Hòa thượng Thích Thành Đạo Pháp sư cho họp tăng chúng lại, lập đàn, thế phát quy y để cho ngài được chánh thức xuất gia, nhập đạo và ban tứ cho ngài pháp danh là: THÍCH THIỀN TÂM.
Nơi phần kế chót của quyển “Nhưt Thăng di cảo”, Bảo Đăng có tìm thấy được một bài thơ ghi lại các “nỗi lòng” của cố Hòa thượng trong ngày lễ xuống tóc xuất gia (thế phát thọ giới) rất là cảm động như sau:
NỖI LÒNG TU SĨ (4)
Lạy này tạ hết những niềm thương,
Phụ mẫu đệ huynh khắp mọi đường.
Lạy thứ hai, tay nâng dâng trả,
Tình nhà, nợ nước, nghĩa quân vương.
Lạy thứ ba con xin kính lễ,
Ơn dầy sanh dưỡng mấy mươi sương.
Lạy thứ tư, từ nay vĩnh biệt,
Chôn đời, theo Phật chốn Đoài phương (*)
Thích Thiền Tâm
(Ngày thọ giới)
(*) Đoài phương: là phương Tây – trong đạo Tiên có một pháp môn tên là Bát quái gồm 8 cung, là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Tám cung này được phân bố ra khắp cả bốn phương Đông – Tây – Nam – Bắc, trong đó thì cung Đoài được an trí tại Phương Tây.
Câu thơ chót này ý nói: kể từ nay, ngài đã chôn vùi cuộc đời trần tục của mình để theo Phật A Di Đà nơi miền Tây phương Cực lạc rồi và một người tu sĩ Phật giáo sau khi lạy xong bốn lạy này (lạy tạ tình nhà, lạy tạ nợ nước, ơn vua, lạy tạ ơn sinh dưỡng lạy vĩnh biệt từ thân) thì từ đó trở đi cho đến cuối cuộc đời không còn lạy bất cứ một ai nữa, ngoại trừ Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng mà thôi.
Kể từ nay…
Sau cánh cổng của ngôi SắcTứ Linh Thứu Tự này, chàng thanh niên trẻ tuổi, đẹp trai, tài hoa, phong nhã, thi phú văn chương… của lứa tuổi đôi mươi tên là Nguyễn Nhựt Thăng ngày nào, giờ đây đã chết y như lời ngài nói trong thơ rằng:
Họ Nguyễn, Nhựt Thăng giờ đã chết,
Sau cổng thiền môn đóng kín rồi.
Lành vậy thay.
Kính Bạch Đại Đức Liên Du Thích Thiền Tâm, tất cả đệ tử, đồ tôn chúng con xin cúi đầu đảnh lễ.
Trong phần cuối cùng của di cảo, có bài thơ như sau:
Từ nay tên gọi THÍCH THIỀN TÂM,
Chôn vùi dĩ vãng chốn xa xăm.
Nguyễn Nhựt Thăng kia rày khuất dạng,
Đã chết lâu rồi, tự mấy năm!
TRÍ HIỀN
THÍCH THIỀN TÂM
Năm tháng trôi qua…
Đêm ngày thắm thoát, mùa tiết lần lượt sau trước đổi dời, thời gian chuyển biến âm thầm, không một phút giây nào ngừng nghỉ!
Ôi! đó có phải là Tạo vật đã hiện ra cái tướng lưỡi rộng, dài, diễn nói pháp mầu khiến cho chúng sanh nhận thấy rõ là kiếp người vô thường, vinh hoa giả tạm, để mà mau tìm đường giải thoát cho khỏi bị trầm luân mãi mãi trong vòng sanh tử đó chăng?
Kể từ khi ngài xuống tóc xuất gia cho đến nay, thoáng đó mà đã gần hai năm dài qua mau trong âm thầm lặng lẽ, người Tăng sĩ trẻ tên Thích Thiền Tâm vẫn một dạ miệt mài và tinh tấn nơi bước đường tu, cách biệt hẳn với duyên đời theo đúng như chí nguyện xa xưa của mình trong giờ phút bước chân xuống đò sang sông (Bình Xuân) hơn một năm về trước, là:
Vì sợ tử sanh cam lỗi đạo,
Nguyện đấng huyên đường chẳng xót xa.
Và cũng như qua ý thơ của cụ ông ngày nào:
Vì sợ tử sanh con lỗi đạo,
Hướng về Phật tự lướt xông pha?
Phải, đúng như vậy.
Chính vì sợ tử sanh là cái việc trọng đại, ghê gớm nhứt ở trên cõi đời này mà từ quá khứ đến nay (cùng trong buổi tương lai nữa), nó không dung tha cho bất cứ một ai và riêng mình cả, nên ngài mới:
Bỏ quê, bỏ xứ, bỏ người thân,
Lìa hết thương yêu dứt ruột rà …
Mà dõng mãnh cắt ái, từ thân, gọt bỏ đi mái tóc xanh để trở thành một người tăng ni.
Vậy thế nào được gọi là tưởng đến cái “khổ sanh tử” mà xuất gia? Tổ sư dạy như sau:
– Ta cùng chúng sanh, nhiều kiếp đến nay hằng ở trong cùng sanh tử, chưa từng được thoát ly, khi ở cõi này, lúc thế giới khác, siêu đọa trong phút giây, xuống lên ngàn muôn nẻo! Cửa quỷ sớm đi rồi chiều lại, âm ty nay thoát bỗng mai vào – lên non đao rừng kiếm, thân thể đứt lìa. Nuốt sắt nóng dầu sôi, ruột gan rã cháy – khóc than trong lửa, rên siết trong băng – Muôn lần sống chết nội ngày đêm, giây phút khổ đau bằng thế kỷ – lúc ấy dù biết tội khổ, nhưng ăn năn sao kịp!
Đến khi ra khỏi, vội liền quên mất, vẫn tạo tội như thường. Tâm không hằng như lữ khách ruổi dong, thân chẳng định hướng cửa nhà thay đổi. Cát bụi cõi đại thiên không tính nổi số thân luân chuyển, nước đầy trong bốn bể, chẳng nhiều bằng giọt lệ biệt ly!
Nếu không lời Phật nói, thì việc này ai thấy, ai nghe! Ví như chẳng xem kinh, lý ấy đâu hay, đâu biết? Thảng hoặc luyến mê như trước, chỉnh e y cũ luân hồi. Rồi ra trăm kiếp nghìn sanh, khó hối một lần trăm lẫn. Giờ tối vội qua mà chẳng lại, thân người dễ nhưng khó tìm.
Âm cảnh mịt mờ,
Xót nỗi biệt ly dài đặt.
Tam đồ ác báo,
Thương cho thống khổ ai thay!
Vậy nên phải:
Dứt nguồn sanh tử,
Cạn bể dục si.
Độ thoát mình người,
Đồng lên giác ngạn.
Muôn đời siêu, đọa,
Duy ở kiếp này.
Không bê trễ được.
(Liên Tông Thập nhứt Tổ – Thiệt Hiền Đại sư)
(Phương liên Tịnh xứ Vô Nhất Đại sư Thích Thiền Tâm dịch)
Là một người hiểu đạo lý (một cách thâm sâu). Cho nên kể từ sau ngày xuất gia trở thành sa môn Thích tử, cố Hòa thượng hằng luôn tinh tấn, chuyên cần, quán xét cái nỗi khổ sanh tử đáng sợ như thế mà niệm Phật ngày đêm (như khi còn nhỏ, lúc mới lên 7 tuổi mà đã biết niệm Trời, niệm Phật rồi vậy). Nhứt quyết trong hiện đời này, nương theo nguyện lực của đức A Di Đà Thế tôn, đới nghiệp về Tây, biệt đường sanh tử. (Có như vậy mới xứng đáng được với cái Phật ấn của Phật đã in lên trán thọ ký ngày nào).
Có đôi lúc trên pháp tọa giảng kinh hoặc thuyết pháp, cố Hòa thượng thường vì tứ chúng mà khai thị về cái chết như sau:
Như có người bị tội nặng, vua dạy đem ta chém chết, người ấy có thể dùng lời nói dịu dàng khéo léo, hoặc dâng lên của cải, tiền bạc, châu báu v.v… mà được khỏi tội.
Nhưng sự chết thì không như thế.
Dầu cho dùng hết tất cả lời nói dịu dàng, dâng lên hết tất cả châu báu trên thế gian này cũng chẳng thể nào thoát được. Cái chết là một hiểm nạn, không gì giúp đỡ được, ví như đi đường xá xa xôi mà chỉ có đơn độc một mình. Cái chết nó vào không cần có cửa nẻo mà vẫn đến chỗ, đến nơi, khi nó đến nơi (ta) rồi dù (ta) không đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành.
Cái chết khi nó đến rồi thì không ai ngăn được, không ai thoát được. Nó không phá phách gì mà người luôn luôn sầu khổ, nó không có hình tướng hay màu sắc xấu xa chi mà làm cho tất cả trời, người thảy đều kinh sợ, nó hằng ở bên bản thân mọi người mà chẳng ai biết, ai hay. Do vậy cho nên biết rằng cái chết là một điều đại khổ…
(Thời pháp này, tên là “Thời pháp vô thường” mà cố hòa thượng đã giảng tại Phương Liên Tịnh xứ đạo tràng vào trước năm 1975).
Trong thời gian này, thỉnh thoảng cũng có đôi lúc ngài nghĩ tưởng đến song thân, vì ngài cũng dư biết lúc ngài ở nơi xã Bình Xuân xa xôi kia hiện có bóng dáng của hai người đang thổn thức đau buồn và có lẽ gần như mỗi ngày đều tựa cửa mong ngóng tin con.
Xót cảnh mẹ hiền thân tựa cửa,
(Xót cảnh cha già trong quạnh vắng)
Mỏi mòn tin nhạn chốn xa xăm …
Nhưng tình đời xưa nay vẫn thế, bởi có hợp tất phải có tan, có vui tất phải có buồn, có sanh tất phải có tử … Nếu như ta không dõng mãnh cắt ái, ly gia, noi theo con đường đi của chư Phật, ắt thân hiện tại đây sẽ phải bị lâm vào trong cái cảnh “cá chậu chim lồng” nơi thường tình nhân thế là sự ràng buộc, yêu ái của gia đình và rồi ở buổi tương lai sẽ lại tiếp tục chịu trầm luân mãi mãi trong vòng sanh tử mà thôi.
Vì thế cho nên thà cam bề lỗi đạo với huyên đường là chẳng thể chung thân hầu hạ sớm hôm còn hơn là bị suốt đời giam thân vào trong trầm lụy.
Qua ý đó, ngài đề bút biên thành một bài thơ sau đây:
Cũng biết từ khi vắng bóng con,
Huyên đường sao tránh khỏi thon von.
Sớm hôm tựa cửa chờ tin nhạn.
Tháng lại ngày qua chắc mỏi mòn!
Nhớ con xin niệm Di Đà Phật,
Nhờ đức từ bi đỡ héo hon.
Lỗi chẳng chung thân hầu sớm tối,
Vì chưng muốn thoát chốn lồng son.
Thích Thiền Tâm
(Bài thơ không gởi)
Bài thơ này mặc dù ngài đã biên xong nhưng vẫn còn nằm trên bàn viết chớ không có gởi về chốn gia đường, (Bảo Đăng được bài thơ này nhân khi xuống chùa Sắc Tứ truy tìm thêm các tài liệu về thời thơ ấu của cố Hòa thượng (1993) do một Phật tử lớn tuổi trao lại), theo như thiển ý, có lẽ vì đây chỉ là một bài thơ “tự cảm” nên ngài không gởi nó đi chăng? (*) [(*): theo lời của đạo hữu này kể lại thì khi xưa nhân có một lúc quét dọn trong phòng của cố Hòa thượng, người nhặt được nó ở trên mặt đất và lưu giữ cho đến nay để làm kỷ niệm.].
Và sau đó (gần 2 năm sau ngày xuất gia), song thân của ngài mới nhận được một bức thơ cùng một bài thi từ nơi ngài gởi về mà trong đó ngài vừa thăm, vừa thuyết pháp, vừa khuyên nhắc niệm Phật (đã có ghi ở đoạn trước) tu hành và cũng vừa an ủi cho mẹ cha vơi bớt đi phần nào nỗi niềm thương nhớ.
Trong đó có mấy câu chí tình, chí đạo như sau:
(Lặp lại):
Tụ tán xưa nay lý vẫn thường,
…
Nếu có nhớ con xin niệm Phật.
Phát lòng quy hướng chốn Tây phương
…
Cực lạc là quê chốn náu nương.
(Thích Thiền Tâm)
PHẦN III:
GIAI ĐOẠN XUẤT DƯƠNG HỌC ĐẠO
(Nhắc lại… Trong cuộc đời của cố Hòa thượng có hai lần xuất dương quan trọng:
– Một lần rời quê lên Mỹ Tho học thuốc để trị bệnh cho mẹ khi còn là cư sĩ.
– Và lần này trong tư cách của một học tăng xuất dương (khỏi chùa) đi xa học đạo.)
Trong hết thảy chúng ở chùa thì ngài là một người nhỏ tuổi và mới tu nhất, nhưng ai nấy cũng đều nhìn nhận rằng người tân sa di mới xuất gia đây quả nhiên có một khả năng về đạo học rất uyên thâm và một rí thông minh tuyệt vời, mà từ trước đến nay ít thấy có ai được như vậy cả.
Chẳng những như thế không mà thôi, lại còn đứng thêm về mặt tánh hạnh và sự chuyên cần tu học cũng chẳng thấy có ai hơn được. Do đó cho nên trong chùa mọi người ai cũng đều mến thương và quý trọng ngài hết. Nhất là đại lão Hòa thượng thế độ, kiêm y chỉ sư, Thích Thành Đạo đặc biệt chú ý và có tâm muốn nâng đỡ ngài. Năm nay Hòa thượng cũng đã cao tuổi lắm rồi, ngày về với Phật e chẳng còn lâu, nên Hòa thượng muốn cho ngài có được một cơ hội khác, thuận tiện hơn nữa để phát triển thêm sở học, hầu sau này có thể làm rỡ mặt cho sư môn và mang lại ích lợi nhiều hơn cho Phật giáo. (Vào thời gian này Phật giáo trong miền Nam bị phân tán, chia chẻ ra nhiều chi phái khác nhau nên không được mấy gì khởi sắc cho lắm so với Phật giáo ở ngoài Trung và ngoài Bắc).
Hòa thượng nghĩ rằng:
– Như con chim đại bàng thì phải bay lên khỏi chín từng mây, chớp cánh một cái là vượt xa hàng trăm muôn dặm, con cá kình (ngư) thì phải vẫy vùng nơi chốn bể sâu, con rồng thiêng ắt phải về nơi đại hải hay bay bỗng giữa lừng trời, chớ không thể nào để cho chim đại bàng mà phải bị giam mình ở trong bờ lau, đám sậy, con cá kình phải bị trầm mình nơi chốn suối ao, và con rồng thiêng phải bị vùi thân trong đáy vực được.
Sa di Thiền Tâm đây qua con mắt của ta, quả thật nó có một cái “chân tài, thực học” và một trí huệ phi thường còn đang tiềm ẩn, tựa như viên ngọc quý mà vẫn còn bị nằm trong khối đá vậy. Ta là thầy, thì bổn phận của ta là phải làm sao cho đệ tử càng ngày càng thêm tăng tiến, giỏi dắn hơn lên, phải đập bể đá kia mà đem viên ngọc quý ấy ra ngoài rồi giũa mài cho nó thành một món bảo vật tuyệt vời mới được.
Cho nên ta không thể nào để cho THIỀN TÂM nó phải (bị) lâm vào cái cảnh vùi thân tại ngôi chùa cổ nằm nơi quận nhỏ này mà uổng phí đi cho một đấng “tăng tài” trong Phật pháp được cả.
Ta phải đưa nó lên Sài Gòn và gởi vào trong Phật học viện để cho khả năng của nó được đào luyện phát triển đúng mức hầu sau này nó sẽ trở thành một vị tăng tài cho Phật giáo trước khi ta nhắm mắt lìa trần.
Vì nghĩ như vậy nên Hòa thượng mới gọi ngài vào trong tư thất, bày tỏ ý kiến của mình cho ngài rõ và quyết định đưa ngài xuất dương đi học đạo tại Sài Gòn.
Ban đầu ngài từ chối và thưa rằng mình vốn không có một ý định gì ở nơi danh vọng, tiếng tăm hết mà chỉ muốn an thân nơi chốn chùa nghèo, quận nhỏ, một tâm, một dạ chuyên nhất tu hành cho đến ngày giải thoát mà thôi. Nhưng sau khi nghe Hoà thượng thế độ sư giải bày cặn kẽ mọi lẽ thiệt hơn, nên ngài dập đầu tạ ơn mà bái lãnh.
Mọi thủ tục đã xong, sa di THÍCH THIỀN TÂM bái biệt sư phụ cùng các bạn đồng tu và ngôi Sắc Tứ Linh Thứu tự, đến Mỹ Tho vào Vĩnh Tràng tự đảnh lễ Hòa thượng bổn sư THÍCH PHẬT ẤN thưa rõ lý do và được Hòa thượng hoan hỷ tán đồng rồi, thì ngài khăn gói lên Sài Gòn vào trình diện viện Hóa Đạo Ấn Quang, nơi đây ngài được Hòa thượng Viện chủ THÍCH THIỆN HÒA hoàn tất cho các thủ tục cần thiết sau chót, để ngài đến Phật học đường LIÊN HẢI (Chùa Sùng Đức) trình diện và theo học chúng nơi đây, thụ học chương trình Trung Đẳng Phật pháp.
(Thời gian này là vào đầu năm 1948 – ba năm sau ngày xuất gia).
Đến đây, ngài lại bắt đầu bước thêm vào một đại lộ khác nữa, to lớn và rộng rãi hơn trên con đường tiến tu đạo nghiệp của mình.
Và nơi đây, tại viện Trung Đẳng Phật học Liên Hải, tăng sinh THÍCH THIỀN TÂM lại bắt đầu dùi mài, kinh sử bút nghiêng cùng với chư học chúng từ các nơi khác của hai miền Trung, Nam quy tụ về cùng nhau tu học … (Đến đây Bảo Đăng tôi chỉ xin lược sơ qua chớ không đi sâu vào chi tiết vì các lý do sau:
– Các tài liệu về việc tu học của ngài trongthời gian này hầu hết đều bị thất lạc, nên việc thu thập của Bảo Đăng không được hoàn hảo.
– Để tỉnh giảm bút lực cho các phần khác sau này).
Chương trình Trung đẳng Phật pháp cho một vị tăng (nồng cốt của giáo hội) kéo dài trong ba năm liên tiếp, vì vậy cho nên thời gian ngài theo học tại nơi đây bắt đầu từ năm 1948 cho đến cuối năm 1950 mới hoàn tất và tốt nghiệp xong trình độ Trung đẳng Phật học. Trong giai đoạn này (từ 1948-1950), tình trạng Phật giáo miền Nam (như đã có lược sơ qua ở phần trước) vẫn còn bị phân tán và thiếu tổ chức cho nên mặc dù Phật tử tuy là đông nhiều, nhưng đại đa số đều không thông hiểu Phật pháp, còn về phía chư tăng ni đa phần cũng không được đào tạo Phật pháp đúng mức trong chức vụ đảm nhiệm, cho nên các Hòa thượng lớn đều có vẻ lo âu và cùng nhau bàn tính suy tìm một phương cách mới để chấn hưng giáo hội, bằng cách đào tạo thêm tăng tài và phổ biến giáo lý một cách rộng rãi hơn nữa từ thành thị đến thôn quê, hầu cho các tầng lớp dân chúng và Phật tử được ít nhiều hiểu biết thêm về quốc giáo của mình.
Và như vậy cho đến mùa Xuân năm 1950 (Canh Dần) – (Lúc đó cố Hòa thượng còn đang theo học những chương trình chót của lớp Trung Đẳng Phật pháp nơi Phật học viện Liên Hải) – thì các Hòa thượng lớn (bậc thầy) mới bắt đầu thực hiện được phần đầu của kế hoạch.
Rồi kế tiếp sau đó, hai Phật học đường có tiếng tăm của Miền nam lúc bấy giờ là: Phật học đường Liên Hải và Phật học đường Mai Sơn được kết hợp và nhập chung lại thành ra một Phật học viện lớn hơn và duy nhất đó là:
“PHẬT HỌC ĐƯỜNG NAM VIỆT”
(cũng vẫn còn) đặt trụ sở tại chùa SÙNG ĐỨC (Chợ Lớn) Chư tăng sinh của cả hai Phật học đường đều được sáp nhập lại vào trong Phật học đường Nam Việt dưới sự Đốc giáo (Hiệu trưởng kiêm Giáo sư trưởng) của Hòa Thượng Viện chủ kiêm Trụ trì Viện hóa Đạo Ấn Quang THÍCH THIỆN HÒA. Và đương nhiên là Cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm của chúng ta cũng theo về nơi Phật học đường Nam Việt mới (cùng một trụ sở là Chùa Sùng Đức) và tại nơi đây ngài đã hoàn tất xong chương trình Trung Đẳng Phật Pháp vào cuối năm 1950.
Thời gian từ khi ngài rời khỏi bổn tự Sắc Tứ Linh Thứu, bổn sư THÍCH PHẬT ẤN cùng với thầy thế độ kiêm y chỉ sư THÍCH THÀNH ĐẠO để lên Sài Gòn tu học và tốt nghiệp xong lớp Trung Đẳng này trước sau là 3 năm cả thảy (1948-1950).Cũng trong thời gian này (vào khoảng đầu năm 1950 cố Hòa Thượng thọ cụ túc đại giới (tỳ kheo giới) tại đại giới đàn Ấn Quang, bái Hòa Thượng hội chủ, kiêm viện trưởng viện Hóa Đạo Ấn Quang THÍCH THIỆN HÒA làm y chỉ sư và cầu pháp sư, để nương theo tu học trên con đường đạo nghiệp. (Như vậy thì trước sau cố Hòa thượng có tất cả là 3 thầy dẫn dắt trong đường đạo).
1. Mỹ Tho, Vĩnh tràng tự, Hòa thượng THÍCH PHẤT ẤN: bổn sư.
2. Xoài Hột, Sắc Tứ Linh Thứu Tự, Đại lão Hòa thượng THÍCH THÀNH ĐẠO: Y chỉ sư và thế độ sư (Thầy xuống tóc cho mình thì gọi là thế độ sư).
3. Sài gòn, Ấn Quang Tự, Hòa thượng THÍCH THIỆN HÒA: Y chỉ sư và cầu pháp sư.
Sau khi mãn khóa học này, các học chúng có người thì trở về chùa xưa tiếp tục lo phần hóa đạo, có người thì vẫn ở lại Sài gòn để tiếp tục học thêm.
Chư Hòa Thượng trong ban Giáo thọ của Phật học đường Nam Việt nương trong thế thuận lợi này mở tiếp lớp: “CAO ĐẲNG PHẬT HỌC I” để đào tạo thêm các tăng tài cho giáo hội với trình độ cao cấp, khả dĩ có đầy đủ khả năng làm hưng thịnh cho Phật giáo trong thế hệ kế tiếp (quý thầy lớn hiện tại) sau này. Khóa I Cao đẳng Phật pháp này được thành hình vào cuối năm 1950, và bắt đầu khai giảng lớp học đầu tiên vào tháng Giêng năm 1951 (Thời gian này Phật học đường Nam Việt được dời trụ sở từ chùa Sùng Đức về chùa Ấn Quang).
Cố Hòa thượng THÍCH THIỀN TÂM của chúng ta được tuyển chọn để tham dự vào lớp học mới này. Lúc đó do vì danh tiếng của Phật học đường Nam Việt được phổ cập khắp cả miền Nam, nên chư tăng từ khắp các nơi vân tập về xin ghi danh nhập học rất nhiều (trên 100 vị học tăng).
Cũng trong giai đoạn này vì là một Phật học viện lớn, chư học tăng lại đông, ban giáo thọ hiện tại không thể nào lo cho xuể được (thiếu nhân lực) nên phải tuyển chọn một số các thầy xuất sắc, có đầy đủ khả năng, trình độ của lớp Cao đẳng … ra phụ giúp, và cố Hòa thượng được tuyển chọn vào trong ban giám học với chức vụ “TRI CHÚNG” (tức là làm trưởng tràng, trực tiếp trông coi, nhắc nhở và điều khiển sinh hoạt cho các học chúng).
Năm đó cố Hòa thượng vừa được 24 tuổi.
Và mặc dầu rằng còn trẻ nhưng vị Tri chúng này đều được tất cả mọi người mến thượng, quý trọng (mà mãi cho đến về sau này, những thầy học cùng khóa với ngài lúc bấy giờ, mỗi khi nhắc đến thầy Thiền Tâm ai nấy cũng đều kính nể cả).
Trong số các học tăng của lớp Cao Đẳng Phật pháp đầu tiên này (Sau đó còn có lớp thứ hai và thứ ba nữa) thì thầy Thiền Tâm lúc nào cũng vẫn luôn luôn là một tăng sinh đứng đầu trong lớp về các phương diện:
+ Tài đức.
+ Khả năng và thiện chí.
– Trên bình diện học vấn, ngài rất mực thông minh, học đâu hiểu đó và thông suốt cặn kẻ mọi đề tài, cho nên các giáo thọ sư đều rất mến thương, nâng đỡ.
– Về đức hạnh thì cố Hòa thượng là một người nghiêm trang, ít nói. Hoặc như khi có việc gì cần phải nói năng, khuyên nhắc thì ngài rất từ tốn, dịu dàng không làm cho một ai bị tổn thương hay xúc não cả.
– Về khả năng và thiện chí thì ngài luôn luôn thích ứng và chu toàn bất cứ một trách nhiệm nào đã được các thầy lớn giao phó một cách hoàn hảo chớ không tắc trách hay bỏ dỡ nửa chừng.
Hòa thượng Viện chủ kiêm đốc giáo THÍCH THIỆN HÒA luôn luôn hài lòng với ngài và thường nói với chư giáo thọ sư khác rằng:
– Thiền Tâm là một con người đặc biệt, sau này nó sẽ làm lợi ích cho Phật Giáo rất nhiều. Tôi mong mỏi sao cho có được nhiều người như nó vậy thì trong tuổi già tôi mới có thể an tâm tịnh dưỡng.
Khoảng đầu năm 1952, Hòa thượng Hội chủ THIỆN HÒA, cùng với một số quý thầy khác trong Hội Phật Học Nam Việt như Thầy Nhựt Liên – Thầy Quảng Minh, v.v… đến Trà Ôn (Vĩnh Bình) cung thỉnh Hòa thượng THÍCH THIỆN HOA (trụ trì chùa Phật Quang, làng Bang Chang, Quận Trà Ôn) về Sài Gòn để cùng chung lo Phật sự, tiếp độ học chúng, đào tạo tăng tài. Và sau đó, vào đầu năm 1953, Hòa thượng THIỆN HOA (cùng với ban giám học của ngài thêm 7 vị nữa) lên đến Sài Gòn, thay thế Hòa Thượng THIỆN HÒA giữ chức Đốc giáo Phật Học Đường Nam Việt. Thời gian này cố Hòa thượng Thiền Tâm đang theo học các chứng chỉ chót của lớp Cao đẳng và ngài cũng đã tiếp tay với Hòa Thượng THIỆN HOA rất nhiều trong chức vụ Tri chúng và ban giám học, nhờ vậy mà sanh hoạt của chư học tăng được rất nhiều thuận duyên tốt đẹp để an tâm tu học.
Cuối năm 1954, lớp I Cao đẳng Phật Pháp hoàn tất, trong số hơn 100 học tăng chỉ có 13 vị được tốt nghiệp, (tất cả học chúng còn lại chỉ đủ sức để được cấp chứng chỉ mà thôi), trong số 13 vị tốt nghiệp ấy thì cố Hòa thượng được xếp đứng đầu với điểm hạng “Tối Ưu” qua bài văn “KHUYẾN TU” BẤT HỦ (mãi cho đến bây giờ, đã hơn 40 năm qua rồi mà bài văn này vẫn luôn luôn là một bài văn có giá trị siêu tuyệt).
Đến đây, Bảo Đăng tôi thấy việc rất cần thiết là phải nên ghi lại bài văn Khuyến Tu ấy vào nơi quyển sách này hầu cho chư đọc giả có duyên xem đến, nhơn đó mà được thêm ít nhiều thức tỉnh, lập tâm nơi bước đường tu, nhất là về pháp môn Tịnh Độ:
KHUYẾN TU
(TRÍ HIỀN, THÍCH THIỀN TÂM)
Soạn dịch:
Dẫn nhập:
Xưa Nhan Bính. Như Như cư sĩ.
Dẫn luận kinh, ý ý khuyên cầu.
Bút nhàn khuyên giữa canh thâu,
Tỉnh ai trần lụy, đổi sầu làm tươi.
Thân bào ảnh lắm người yêu quý, (1)
Yêu quý than cho lụy vì than,
Cuộc vui những ước vô ngần,
Nào hay vui vẫn là nhân chác sầu!
Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ,
Vóc huyễn hư giọt lộ long hoa,(2)
Đôi mươi trẻ, tám mươi già,
Số người yểu thọ, khó qua vô thường.
Dép dưới giường, trên giường bỗng biệt,
Sống ngày nay dễ biết ngày mai,
Mạng người hô hấp cho hay,
Nghĩ cơn vĩnh biệt, tuyền đài mà đau!
Xót duyên kiếp vì sao ngắn ngủi,
Chấp than chi để tủi cho thân,
Da bao những thịt, xương, gân,
Xác người như thể đóng phân sạch gì.
Tóc, răng, móng khác chi đất bợn,
Mũi, dãi, đờm ghê tởm xiết bao,
Bên ngoài rệp đút, muỗi đeo.
Bên trong sán, lãi lẫn vào nhớp chưa?
Nỗi nóng bức, ngày trưa tiết hạ,
Cơn lạnh lung đêm giá trời đông,
Xét thân nhơ khổ vô cùng,
Xả lòng tham luyến, khởi long thoát ly.
Trách người thế mê chi lắm nhẻ,
Sánh phong lưu phô vẻ y quan, (3)
Kẻ khờ cũng học đài trang (4)
Để lòng điên đảo, theo đàng sắc thanh.
Đầu xương sọ cài trâm thắt lụa,
Đảy da hôi ướp xạ, xông hương,
Khéo đòi nhung gấm phô trương
Chỉ tuồng che lớp vô thường hôi tanh.
Những mãn tưởng ngày xanh muôn tuổi,
Lắm cơ mưu theo đuổi yên hoa.
Ngờ đâu tay điếc, mắt lòa,
Diêm vương sắp rước đến tòa U Minh.
Làn tóc bạc đưa tin quỷ sứ,
Góc răng long nhắn ý quy âm,
Càng tài, càng sắc, càng dâm,
Càng cho đọa lạc, càng lầm mà thôi
Cuộc hành lạc một thời tham tiếc,
Nẻo luân hồi muôn kiếp đắng cay,
Đến khi sắp xuống Diêm đài,
Thịt xương đau nhức, chân tay rụng rời,
Vợ lưu luyến, đầy vơi giọt lệ,
Con tiếc thương, kể lễ khóc than.
Dầu cho quyến thuộc muôn ngàn,
Có ai thay thế cho chàng được đâu!
Kẻ sống nặng hoằng gánh tủi,
Người chết đi dong ruỗi phách hồn,
Đường âm mờ tựa đêm hôm,
Trông ra quạnh quẻ bồn chồn chỉnh ghê.
Nại hà đến lạnh tê gió lốc, (5)
Quỷ môn quan ghê gốc tiếng thương,
Bảy ngày lìa quá cõi dương,
Âm ty đã trải trăm đường khảo tra.
Tào quan xử thét la chẳng vị, (6)
Ngục tốt hờn, xoa, chủy đâu tha. (7)
Đài gương nghiệp cảnh chói lòa, (8)
Soi tường thiện, ác chối qua được nào.
Người nhân đức đưa vào cõi phước,
Kẻ hung hoang giải trước hình ty,
Đọa đày thảm khổ xiết chi,
Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm.
Rừng đao kiếm bao năm hết tối, (9)
Kiếp lông, sừng nhiều nỗi đa mang, (10)
Trả đền cho dứt nghiệp oan,
Mới mong thoát khỏi con đàng long đong.
Dù ai có to lòng, lớn mật,
Mặc chàng hay báng Phật, khinh Tăng, (11)
Chẳng qua đối trước Diêm quân,
Cúi đầu, co gối chịu phần khảo tra.
Hồn phách đã xa chơi âm giới,
Thi hài còn nơi cõi dương gian,
Có tiền mua lớp áo quan,
Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh lùng.
Chất da thịt sẽ cùng tan rã,
Tấm hình hài lần hóa tanh hôi,
Chỉ trong hôm sớm mà thôi,
Chầy năm bảy bửa, sớm thời ít hôm.
Nét kiều diễm chập chờn xuân mộng,
Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân,
Khi xưa tài sắc mười phân,
Mà nay một nấm cô phần lạnh tanh. (12)
Thời oanh liệt, anh hùng đâu tá,
Nỗi ái ân hư, giả còn chi,
Phất phơ cành liễu xanh rì,
Giấy tiền treo đó, đường ghi mối sầu.
Bóng chiều rủ xuống mầu cỏ biếc,
Bia mồ trơ một chiếc vắng không,
Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng,
Đời người đến thế là xong cuộc đời.
Ví chăng biết tìm nơi giải thoát,
Nương về ngôi chánh giác quy y,
Luân hồi dứt hằn có khi,
Bên trời bát nhã còn chi lo phiền.
Lối ma quỷ đừng riêng sinh sống,
Đất từ bi có giống Hoa Đàm, (13)
Giữ long thiến, dứt long tham,
Gái, trai, Tăng, tục đều ham tu hành.
Rõ cảnh mộng chớ quanh đường mộng, (14)
Biết miền chơn hãy chóng tu chơn, (15)
Dần dà tính thiệt so hơn,
Tuổi xuân qua mất để hờn về sau.
Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm, (16)
Chín phẩm đài sen, chiếm ngôi vinh,
Chớ nên mình phụ lấy mình,
Trách sao Diêm Lão vô tình chẳng dung. (17)
Bỏ điều ác xin cùng tu thiện,
Chừa lỗi xưa, cải tiến đường sau,
Lại vì quyến thuộc bảo nhau,
Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì.
Khiến mỗi kẻ đồng quy bến giác,
Cho mọi người đều thoát song mê,
Dù cho lao khổ dám nề,
Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin….
Xin dốc tưởng tin theo lời Thánh, (18)
Đừng để cho rỗi rãnh, ưu du, (19)
Kiếp này nếu chẳng chuyên tu,
Chỉnh e kiếp khác công phu lỡ làng.
TRÍ HIỀN
(THÍCH THIỀN TÂM)
(1) Câu này ý nói: Thân tứ đại của ta không bền, nó mong manh như bóng, như bọt, không thường còn, sống chết không biết lúc nào, vậy mà người đời lầm tưởng là nó trường tồn nêng nâng niu yêu quý nó (rốt cuộc bị đoạ vì nó).
(2) Thân vóc này nó mau già, bệnh, chết, cũng giống như giọt sương (giọt lộ) đọng ở giữa bông hoa vậy, lúc sáng sớm còn thấy có nó, đến khi mặt trời lên một chút sau thì tan mất (bốc hơi) – Đây cũng ý nói là không bền.
(3) Vậy mà còn làm ra vẽ giàu sang, phô trương áo quần nhung lụa (bọc bên ngoài cái thân hôi thúi)
(4) Cho đến đứa ngu khờ (đây là dụ cho tất cả chúng sanh) cũng muốn làm sang đẹp – Đây là cái bịnh yêu, ái, chấp thủ (tập khí) của tất cả chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến giờ.
(5) Nại Hà: là tên của một con sông ở dưới âm phủ nằm phân chia ranh giới của cõi dương (sống) và cõi âm (chết). Bắc ngang qua sông là một cái cầu vồng nhỏ bề ngang chừng bằng bắp tay tên là Nại Hà kiều. Hồn người chết phải đi ngang qua cầu ấy. Trên cầu có gió lạnh thổi lên, nếu hồn là người hung ác, tội nặng… thì bị lạnh cóng, tê hết tay chơn, té xuống sông, bị rồng rắn ở dưới ăn thịt (và bị đọa vào địa ngục)
(6) Tào quan: Tào là âm tào (âm phủ) – Mấy vị quan lại dưới âm phủ như phán quan chẳng hạn. Đối với người có tội thì họ la hét, xử phạt thẳng tay không có vị tình dù kẻ đó là Trời, rồng, vua chúa đi nữa (pháp bất vị thân)
(7) Xoa, Chủy: Tên của một thứ vũ khí thời xưa – Xoa: giống như một cái lò xoa (ruột gà) nhọn và bén, đâm vào bụng rồi rút ra thì ruột, gan, tim phổi theo nó mà đổ đống ra ngoài – Chủy: tựa như quả tạ, đập xuống một cái là dẹp lép như tờ giấy.
(8) Đài gương nghiệp cảnh: ở âm phủ có lập một cái đài cao, trên đó có bài trí một tấm kiếng (gương) rất lớn. Nếu vong hồn nào chối nói là không có gây tội vv…thì phán quan đem ra trước kiếng này, bao nhiêu tội ác của người đó trước sau đều hiện rõ ra trong kiếng, hết đường chối cãi, phải bị xử phạt xứng đáng.
(9) Rừng đao kiếm: Rừng cây mà từ thân, nhánh, lá, bông, trái đều bằng gươm đao hết. Người trên thế gian làm nghề đồ tể, hoặc săn bắn khi chết bị đọa vào đây, thấy có thú dữ rượt bắt, sợ quá leo lên cây trốn. Kế đó có gió mạnh thổi tới, toàn thể cây đều hóa ra gươm, đao theo sức gió mà khua động chém người đó nát ra từng miếng nhỏ.
(10) Bị đọa làm thú vật mang lông, đội sừng (như trâu, bò vv…)
(11) Những kẻ kiêu ngạo khinh chê, hủy báng Tam Bảo.
(12) Cô phần: Nấm mộ, mã người chết.
(13) Trong tâm mình sẳn có Phật (tánh) rồi. Đất từ bi đây là Tâm địa (như trong kinh Tâm địa quán dạy vậy)
(14) Người học Phật đã biết cõi đời này là mộng, tất cả sự việc đều chẳng bền như đồ vật trong chiêm bao (mộng) rồi thì đừng có bám theo mộng đó (người đời do ngu mê nên sống trong mộng (giả dối) mà cứ tưởng là thiệt).
(15) Biết giải thoát là chơn thì nên tu theo lời Phật dạy để bỏ giả cõi trần mà quay về cảnh chơn nơi cõi Phật.
(16) Sáu chữ Phật: là lục tự Di đà tức là câu “Nam mô A Di Đà Phật”.
(17) Diêm lão: là vua Diêm Vương, cứ y theo tội mà xử chẳng có dung tha.
(18) Xin hãy tin theo lời Phật dạy, thánh dạy (mà phản tỉnh tu hành) đừng nghe theo các lời tà ma, ngoại đạo.
(19) Rỗi rãnh, ưu du: Làm biếng nhác (ưu du) ý của câu này nói phải nên siêng tu.
Sau khi khoá I Cao đẳng Phật pháp bế giảng rồi (và trước khi chuẩn bị mở khóa II kế tiếp) thì Hòa Thượng hội chủ THÍCH THIỆN HÒA (Viện trưởng Viện hóa đạo kiêm Trụ trì Ấn Quang tự), Hòa thượng THÍCH THIỆN HOA (Đốc giáo Phật học đường Nam Việt) và ban giảng sư của Phật học đường hội hợp tất cả 13 vị Đại Đức Tăng sinh tốt nghiệp lại phân phối và giao phó cho trách nhiệm xứng hợp theo khả năng chuyên môn của mỗi vị hầu cho việc hoằng dương đạo pháp được rộng rãi và mau chóng có kết quả hơn.
Trong đó cố Hòa thượng được chỉ định giữ trọng trách hoằng dương về môn Tịnh Độ.
Trước chư vị tôn sư, giáo thọ, cố Hòa thượng quỳ đảnh lễ và xin được nhập thất chuyên tu về Tịnh Độ thêm một thời gian nữa vì hiện tại ngài thấy sức tu của mình hãy còn quá yếu kém, nếu đứng ra đảm nhận trách nhiệm liền bây giờ thì e rằng không thể nào kham nổi.
Mặc dù nhiều phen được sự khuyến nhắc và an ủi từ nơi Hòa thượng Hội chủ và Hòa thượng Đốc giáo nhưng ngài vẫn không đổi ý định nhập thất chuyên tu của mình. Biết không thể nào lay chuyển được quyết tâm của ngài, Hòa thượng Hội chủ (và cũng là thầy cầu pháp của ngài nữa) mới phán rằng:
– Này Thiền Tâm, con muốn nhập thất chuyên tu thêm thì thầy đây cũng không ép, nhưng ta cho con một thời gian nào đó thôi. Hễ khi nào ta thấy vừa đủ, hoặc là giáo hội có việc cần đến khả năng chuyên môn của con và ta cho người đến thỉnh thì con phải trở về liền chớ không được chối từ lần nào nữa hết nghe không?
Con nên nhớ, ơn thầy, tổ, ơn giáo hội đào tạo cho con thành tài thì con phải đền đáp lại. Ta đây tuổi đời ngày càng cao, sức khỏe ngày càng kém, con đừng để cho tấm thân già của ta phải bị lâm vào cảnh “Trâu già chẳng nệ dao phay” nghe …
Cố Hòa thượng đảnh lễ phục mệnh và trước chư vị tôn sư trong ban giáo thọ ngài hứa sẽ y giáo phụng hành, sau này nếu như giáo hội có việc cần đến thì sẽ trở về để cùng chung lo và trực tiếp gánh vác Phật sự chớ không dám từ nan thêm nữa.
Và rồi sau đó …
Ngài rời Phật học viện lên đường, chọn trụ xứ thích hợp để nhập thất tịnh tu.
Trước hết ngài trở về Mỹ Tho, đến quận Cái Bè cất cốc, nhập thất chuyên tu về Tịnh độ (1955) liên tiếp trong 5 năm (1955-1960). Thời gian này mặc dù bị rất nhiều chướng duyên, ma khảo (như bị dèm pha, nói xấu, vu bang, hủy nhục, v.v…) nhưng ngài vẫn không sờn lòng hay thối chuyển, mà trái lại hơn bao giờ hết, ngài càng kiên cường giữ vững chí nguyện và quyết tâm “Hạ thủ công phu” cho việc tu tập của mình.
Trong 5 năm nhập thất nơi trụ xứ này, mặc dù đêm ngày chuyên cần tu niệm, nhưng ngài cũng không vì đó mà quên mất đi bi nguyện độ sanh của mình. Thời gian 5 năm tại đây ngài đã dịch thuật xong quyển:
1. “Ấn Quang Văn Sao” của Ấn Quang Đại Sư, vị tổ thứ 13 của tông Tịnh độ, dưới đề tựa là “ LÁ THƯ TỊNH ĐỘ” (1956) dài khoảng 200 trang, bằng một lối hành văn cực kỳ nhẹ nhàng, trong sáng, bình dị mà không quê mùa, cao siêu mà không khó hiểu, (Trong tất cả các bậc thầy đương kim, chỉ riêng mỗi một mình cố Hòa Thượng là có cách hành văn đặc biệt này mà thôi). Qua quyển “Lá thư Tịnh độ” này, ngài đã khai quang được một số lớn vấn đề “bị nghi ngờ” của pháp môn Tịnh Độ, khiến cho rất nhiều tín đồ Phật giáo đương thời hiểu rõ thêm cùng phát tâm tin tưởng và thực hành việc niệm Phật, cầu nguyện vãng sanh.
2. Kế tiếp đến từ năm 1957 – 1959 ngài hoàn tất công việc soạn thuật bộ “TỊNH HỌC TÂN LƯƠNG” gồm có 2 quyển dài gần 800 trang giấy.
Sao gọi là Tịnh độ Tân lương?
Y theo đề tựa của bộ sách mà thích nghĩa Tịnh độ là môn học dạy về Tịnh độ – Tân lương là món lương thực mới của mình.
Mà nếu như đã gọi là: “Lương thực mới”. Tất nhiên cũng phải có “lương thực cũ”.
– Thế nào gọi là lương thực cũ và lương thực mới?
– Lương thực cũ đây là gạo, đường, dưa, muối, v.v… cùng với các thứ thực phẩm ăn uống khác nữa của người đời dùng để trưởng dưỡng sắc thân. Sở dĩ gọi là cũ vì nó đã có từ lâu xa lắm rồi (tức là vật thực).
– Lương thực mới đây là món ăn tinh thần của Phật dạy bảo và lưu hậu lại (gọi là pháp thực) đây là một thứ thức ăn mới (tân lương) mà hầu như tất cả chúng sanh trên cõi đời này ít ai hiểu biết và chịu ăn nó cả, ngoại trừ các bậc trí huệ, có căn tu sâu dầy và nghe theo lời Phật dạy, muốn được giải thoát như Phật mới chịu ăn món “tân lương pháp thực” này mà thôi.
Trong bộ sách cố Hoà Thượng đã chỉ dẫn cặn kẽ và hiển bày ra cho tất cả các hàng tứ chúng thấy rõ sự lợi ích thiết thực của pháp môn Tịnh độ cùng với sự việc hiện đời đới nghiệp vãng sanh bằng cách trì niệm hồng danh của đức Phật A Di Đà nơi cõi Tây Phương Cực lạc thế giới xứng hợp với 48 đại nguyện của ngài.
Đến đây ta thấy gì?
– Ta thấy rằng mặc dù ngài bận nhập thất tịnh tu, mới thoáng nghe qua thì tưởng đâu ngài là người tiêu cực, vô trách nhiệm, hay đi sai với đường lối của giáo hội và các bậc Thầy Tổ (lúc bấy giờ), nhưng thật ra bằng vào phương pháp phiên dịch kinh điển và viết sách hoằng dương Tịnh độ như thế này, ngài đã làm lợi ích cho Phật tử nhiều gấp trăm, ngàn lần của một vị trụ trì bình thường nơi chùa to, đền rộng nữa.
Đây là hai bộ sách hiển dương giáo pháp Tịnh độ đầu tiên của Đại Đức Liên Du Thích Thiền Tâm sau 5 năm rời khỏi ghế nhà trường và tiến bước trên con đường vừa tinh cần tu học vừa hoằng dương đạo pháp. Đặc biệt là giáo môn Tịnh độ.
– Khoảng thời gian kế tiếp (từ giữa năm 1960 cho đến cuối năm 1962) ngài chuyển về vùng Vang Qưới ở tỉnh Bến Tre nhập thất thất tịnh tu tiếp. Trong thời gian hai năm nhập thất tại nơi đây, cố Hòa thượng đã hoàn tất việc phiên dịch các bộ sách có tánh cách hiển dương rộng rãi vế giáo môn Tịnh độ sau đây:
1. HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC
Đây là một quyển sách nhỏ dài khoảng 100 trang, nội dung trích lục lại các lời dạy của chư Phật, chư Bồ tát và chư Tổ sư về pháp môn Tịnh độ (toát yếu) xứng với tên của quyển sách, (Hương quê Cực lạc là món ăn quê hương của miền Cực lạc) làm kim chỉ nam cho người tu Tịnh độ).
Trong đây có phần tựa đề vịnh về giáo môn Tịnh độ rất là chí thiết như sau:
(trích lược)
Trôi nổi lìa cha mấy hạ, đông,
Trời TÂY gia nghiệp nguyện làm xong.
Tay vàng mong tưởng ơn dìu dắt,
Dám để TỪ TÔN mỏi mắt trông.
Khổ nhiều vui ít cõi Ta bà,
Muốn thoát trầm luân dễ được mà.
Lãng tử về quê lòng rộn rã,
Cha lành xem lại thật Di Đà.
Bảy hàng cây báu ánh lòa lòa,
Chín phẩm sen vàng bốn sắc hoa.
Nhiếp cả sáu căn thành tịnh niệm,
Mới hay AN DƯỠNG thật quê nhà.
Liên du THÍCH THIỀN TÂM (Dịch)
2. TỊNH ĐỘ THẬP NGHI LUẬN:
Đây là một quyển sách giải đáp hầu hết các mối thắc mắc và hoài nghi về tông Tịnh độ của những người học Phật đương thời. Nhờ vậy mà pháp môn niệm phật càng ngày càng được quảng bá rộng rãi hơn và số người tu theo Tịnh độ mỗi lúc mỗi một nhiều thêm.
3. Soạn ra một phương pháp tu Tịnh độ cho các Phật tử tu tập tên là: TỊNH ĐỘ PHÁP NGHI.
– Giai đoạn thứ ba trong việc nhập thất của ngài là từ đầu năm 1963 cho đến đầu năm 1964 tại Tịnh Giác Duyên (Chợ Gạo – Mỹ Tho).
Thời gian một năm sau cùng tịnh tu tại đây, ngài đã phiên dịch xong bộ kinh QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ (Thập lục Quán kinh) một trong ba quyển kinh chánh yếu của giáo môn Tịnh độ, giải bày và hiển rõ về Thế giới Cực Lạc của đức A Di Đà Phật tại phương Tây. Qua quyển kinh này, ngài đã khiến cho vô số người thời bấy giờ (và cả đến về sau nữa) phát tâm bất thối chuyển tu theo pháp môn Tịnh độ.
– Kế tiếp đến là ngài phiên dịch và hoàn tất quyển: PHẬT THUYẾT THIỆN ÁC NHƠN QUẢ BÁO ỨNG KINH (theo thể điệu văn vần) dạy cho chư Phật tử nói riêng và chung cho mọi người thấy rõ lẽ nhân quả báo ứng của các hành động Thiệc ác.
Đến đây, một lần nữa ta thấy gì qua việc hoằng pháp của ngài trong vòng 10 năm nhập thất tịnh tu?
– Ta thấy rằng: suốt trong thời gian nhập thất đó, ngài vừa tự tu vừa lo việc hóa đạo với 6 quyển kinh, luận, và một pháp nghi tu Tịnh độ mà trong đó ngài vừa phiên dịch, vừa trước tác, vừa soạn thuật đã đem lại lợi ích rất nhiều cho chư Phật tử, góp thêm vào những viên gạch vàng để xây dựng cho nền tảng của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam hiện tại và cả ở tương lai.
Vào khoảng sau Tết năm 1964…
Lúc đó trên Sài gòn, tại Viện Hóa Đạo nơi Chùa Ấn Quang, Hòa thượng Hội chủ THÍCH THIỆN HÒA cùng với Giáo Hội đã hình thành được một dự án quan trọng cho việc đào tạo tăng tài để làm nồng cốt cho việc hoằng hóa Phật pháp về sau.
Bởi sau khi các khóa Phật pháp cao đẳng I, II, III tại Phật học đường NAM VIỆT đã đào tạo được khoảng chừng 50 vị Thượng Tọa nổi danh và có thực tài về Phật học rồi – mấy năm kế tiếp đó vì tình trạng chiến tranh (nội chiến giữa hai miền Nam Bắc) cùng với các biến loạn về chánh trị trong nước và riêng tại Sài gòn đã làm cho việc Hóa đạo và đào tạo chư tăng ni của Giáo hội bị ảnh hưởng chậm trễ rất nhiều, có thể xem như là bị gián đoạn hẳn trong một thời gian dài kể từ năm 1959 đến nay (1964).
Sau năm 1963 (chế độ của họ Ngô Đình bị sụp đổ qua cuộc đảo chánh) thì Phật giáo mới bắt đầu ổn định trở lại. Các thầy lớn trong Phật học đường Nam Việt khi xưa mà đại diện là Hòa thượng THÍCH THIỆN HÒA quyết định tái tục lại chương trình đào tạo tăng tài thế hệ mới để chuẩn bị thay thế quý ngài (nay vốn tuổi đã cao và yếu kém sức khỏe). Bởi quý Ngài nghĩ rằng nếu không làm như thế thì hỏi ai là những người có đủ khả năng để tiếp nối chúng ta trong công việc hoằng dương và bảo tồn đạo pháp sau ngày chúng ta “cỡi hạc quy tiên hay về chầu Phật tổ”?
Và rồi chương trình thành lập một: “VIỆN TRUNG ĐẲNG CHUYÊN BIỆT PHẬT HỌC” được thành hình.
Địa điểm tuyển chọn là AN DƯỠNG ĐỊA (tức là Chùa Huệ nghiêm ngày nay) tại Phú Lâm, gần Xa Cảng miền Tây, thuộc ngoại ô thành phố Sài gòn.
Khi bắt đầu xúc tiến chương trình Hòa Thượng Hội chủ mới tự nghĩ rằng:
– Ai là người có đầy đủ khả năng để đứng ra gánh vác và điều hành việc Phật sự quan trọng này?
Và người đầu tiên Hòa Thượng nghĩ đến là Thượng Tọa Thích Thiền Tâm, chỉ có “NÓ” mới đủ sức mà thôi. Và tiếp theo đó Hòa thượng cũng nghĩ nhớ đến rằng.
– Khi xưa lúc xin phép ta đi nhập thất tịnh tu “NÓ” có hứa là sau này sẽ trở về gánh vác Phật sự và nếu như giáo hội có việc cần đến thì sẽ không có lý do nào để từ nan thêm nữa.
Bây giờ đã đến lúc TA và Giáo hội cần đến “NÓ”. Vậy thì ta còn chần chừ gì nữa mà không triệu “NÓ” trở về. (Ngoài ra Hòa Thượng còn nghĩ thêm đến 2 vị khác trong khoá I Cao đẳng Phật học khi xưa là TT.THÍCH BỬU HUỆ và TT. THÍCH THANH TỪ nữa).
Vì suy nghĩ như thế nên sau đó Hòa Thượng cho đại diện mang thơ của NGÀI đến chỗ hai vị THIỀN TÂM và BỬU HUỆ đang nhập thất ẩn tu, truyền lịnh triệu hồi.
Trong thơ “triệu hồi” gởi cho cố Hòa Thượng có mấy câu chí tình của NGÀI như sau:
“Như lời con hứa năm xưa … nhận được thơ của TA con hãy mau sắp xếp trở về, … lo việc Phật sự… đừng để cho TA mong đợi, … chớ nên để cho tấm thân già của TA đây phải bị lâm vào trong cảnh “Trâu già không nệ dao phay” thêm nữa…
Nhận được “Triệu hồi thư” của ân sư gởi đến và đọc xong những lời lẽ chí tình của NGÀI, cố Hòa Thượng bâng khuâng cảm động, và nghĩ nhớ lại bổn phận của mình đã từ lâu “thiếu sót” đối với Ân Sư (là Hòa thượng hội chủ) … Vả lại trong ba vị Sư phụ của mình khi xưa thì ngày nay hai vị đã viên tịch rồi (Hòa thượng PHẤT ẤN và Hòa thượng THÀNH ĐẠO) chỉ còn lại có một vị sư phụ sau cùng đây thôi. Ơn đức của THẦY ta chưa đền báo.
Và do vì nghĩ như thế nên ngài thu xếp lại mọi việc trở về Sài Gòn, đến Ấn Quang tự đảnh lễ Sư phụ THÍCH THIỆN HÒA và nhận lãnh trách nhiệm (cùng với hai bạn đồng song là Bửu Huệ và Thanh Từ) bắt tay vào việc thành lập: “VIỆN TRUNG ĐẲNG CHUYÊN BIỆT PHẬT HỌC” tại Chùa Huệ Nghiêm. (Sau này đổi tên lại là viện Cao đẳng PHẬT HỌC HUỆ NGHIÊM).
Trường bắt đầu hoạt động vào giữa năm 1964.
– Thượng Tọa THÍCH THIẾN TÂM giữ chức Viện trưởng Kiêm đốc giáo của Phật học viện. (Trưởng giáo).
– Thượng tọa THÍCH BỬU HUỆ và THÍCH THANH TỪ làm phụ tá.
Vì sao gọi là “Chuyên biệt Phật học”?
– Sở dĩ gọi tên “Chuyên biệt Phật học” bởi vì tôn chỉ của trường (trước và sau khi thành hình cùng hoạt động) là chỉ thuần dạy về “NỘI ĐIỂN” TỨC LÀ Kinh pháp và giáo lý cho Chư Tăng ni mà thôi, tuyệt nhiên không có xen lẫn vào bất cứ một bộ môn nào khác (như chánh trị chẳng hạn).
Vì vậy cho nên mới được danh xưng là “Chuyên biệt Phật học” và chỉ thuần túy đào tạo tăng tài cho giáo hội trong chức năng “Như Lai xứ giả” sau này. (Viện Phật học chuyên biệt Huệ Nghiêm đào tạo cả 3 trình độ Phật pháp: Sơ đẳng – Trung đẳng và Cao đẳng). Qua sự điều khiển và hướng dẫn của ngài trường hoạt động rất tốt đẹp. Hàng trăm học chúng các nơi của hai miền Trung và Nam lần lượt tựu về ghi danh theo học.
Nhận thấy nếu chỉ thuần học nội điển không mà thiếu trình độ văn hóa phụ vào thì sau này các viện hóa đạo như giảng kinh, viết sách Phật học v.v… sẽ không được khởi sắc cho lắm. Hơn nữa ngài cũng nhớ lại trường hợp của mình khi xưa (lúc còn ở Vĩnh Tràng tự, nếu như bổn sư PHẤT ẤN Hòa Thượng không khuyến khích học ngoại điển thì mình làm sao được như bây giờ). Thêm vào nữa là đa phần các Phật tử đời nay thường mong tâm kiêu mạn, ưu trề nhún chê khen quý thầy, như là: đấy chỉ là một thầy tu dốt nát, thất học chưa xong hết sơ học trường làng …
Hoặc: nói năng vấp váp, trình bày, thuyết giảng lộng cộng không thông suốt v.v…
Đại khái là vậy.
Vì muốn tránh các trường hợp như thế xảy ra (sau này) vả lại vì cũng muốn nâng đỡ cho tất cả tăng sinh của Học Viện Huệ Nghiêm (là hậu thân của Phật học đường Nam Việt trước kia) giỏi cả hai mặt đời và đạo, nên ngài quyết định mở thêm việc học ngoại điển (học văn hóa phổ thông theo như chương trình hiện hành của Bộ Quốc gia Giáo dục) cho chư Tăng sinh học chúng của trường.
Qua dự án này, ngài cho mời các vị giáo sư chuyên môn và danh tiếng của các trường Trung học ngoài đời đến Phật học viện dạy cho chư Tăng.
Các bộ môn cần thiết như Đại số, Hình học, Vật lý, Hoá học, Vạn vật, Sử ký, Địa dư, Văn chương, Sinh ngữ, Triết học v.v… đều được đem ra dạy cho chư Tăng học hết.
(Chính nhờ vào chương trình này cho nên hấu hết chư Tăng sinh của Phật học viện Huệ Nghiêm đều tương đối giỏi về văn hóa (phổ thông) người thấp nhất cũng đã xong được trình độ của lớp 9,10).
Hòa thượng Hội chủ kiêm Viện trưởng, Trụ trì Viện Hóa đạo và Ấn Quang tự THÍCH THIỆN HÒA cùng với một số quý thầy lớn khác của Phật học đường NAM VIỆT khi xưa (còn sót lại vài ba vị) đều rất lấy làm vui mừng và an ủi khi thấy các học trò cũ của mình ngày nào nay đã nối tiếp được đường lối và chí nguyện của quý NGÀI trong việc giáo hóa và đào tạo chư Tăng cho thế hệ kế tiếp.
Kể từ nay, quý NGÀI đã có thể an tâm tĩnh dưỡng tuổi già và cực lực tu hành cho việc giải thoát mai hậu trong những chuỗi ngày tàn còn sót lại của cuộc đời mình.
Còn riêng về cá nhân của cố Hòa Thượng, trong chức vụ Đốc Giáo của Phật học viện, thì nhờ vào tài năng, kiến thức, uy tín, đức hạnh, lòng từ bi cùng sự tổ chức, lãnh đạo khéo léo của ngài và 2 vị phụ tá nên Học viện càng ngày càng thêm nổi tiếng khắp nơi trong nước. Từ trong Nam ra đến ngoài Trung (và ngược lại) trong các chốn tòng lâm, mỗi khi nhắc đến Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm thì mọi người đều biết rằng đây là một Phật học đường chuyên đào tạo Tăng Tài cho Giáo hội, quy mô không kém gì PHẬT HỌC ĐƯỜNG NAM VIỆT xưa kia.
(Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất lúc bấy giờ rất hoan hỷ và hài lòng về Phật học đường Huệ Nghiêm này).
Vì muốn báo đền ơn đức của các sư phụ (như bổn sư, thế độ sư, giáo thọ sư, cầu pháp sư, y chỉ sư v.v…) cùng công ơn đào tạo của Giáo Hội và đàn na tín cúng cho nên trong thời gian này cố Hòa Thượng còn đảm trách thêm các nhiệm vụ khác mà Giáo Hội và Viện Hóa Đạo giao phó nữa, như là:
– Giảng dạy Phật Pháp tại phân khoa Phật học Viện Đại học Vạn Hạnh.
– Giáo thọ sư tại các ni trường Dược Sư và Từ Nghiêm. (Đào tạo được rất nhiều ni sư lỗi lạc cho ni bộ Bắc Tông). Trong giai đoạn này, mặc dầu luôn bận rộn với chức vụ và các chương trình giảng dạy nhưng không vì thế mà ngài quên đi công việc hoằng pháp lợi sanh của mình, do vậy nên ngài vẫn tiếp tục soạn thuật và phiên dịch thêm kinh sách để cho chư Tăng ni và các Phật tử có được đầy đủ thêm tài liệu tu học.
Thời gian từ năm 1964 – 1967, trước sau ngài đã hoàn thành được các bộ kinh, sách sau đây:
– Năm 1964 – 1965: Hoàn thành công việc soạn thuật bộ sách “PHẬT HỌC TINH YẾU” gồm có 3 thiên (quyển 1, 2, 3) dài trên 1.200 trang. Qua bộ sách này ngài đã gom được vào trong đó một số lớn những đề mục quan yếu trích từ trong các kinh điển mà hàng tứ chúng rất cần thiết phải biết đến, phải học hiểu cho cuộc đời tu hành, hoằng pháp và kiện toàn thêm các kiến thức về Phật pháp căn bản (Trung đẳng) của mình.
– Năm 1965 – 1966: Ngài hoàn tất việc biên soạn quyển “NIỆM PHẬT THẬP YẾU” gồm có 10 chương dài gần 400 trang (Kể luôn cả các phần bổ túc sau này trên 50 trang (1979-1980) (Các ấn bản đang lưu hành hiện nay đều thiếu mất phần bổ túc quan trọng này)
Trong quyển sách này ngài đã giải thích, hướng dẫn và giảng dạy cặn kẽ (đến mức cùng cực) về pháp môn Tịnh độ mà từ trước đến nay chưa có một vị đại sư nào (kể luôn cả các vị thầy lớn (tổ) khi xưa (của Giáo hội Phật giáo Việt Nam) và ngay chính đến các sư phụ của ngài trong Phật học đường Nam Việt trước kia nữa) mà có thể hoằng dương được giáo môn Tịnh độ một cách quy mô và rõ ràng tới tận cùng xương tủy như thế cả.
Cho đến ngày hôm nay (và có thể là mãi mãi về sau) quyển NIỆM PHẬT THẬP YẾU của Cố Hòa Thượng bao giờ cũng vẫn luôn luôn là một quyển sách hoằng dương Tịnh độ (Tông) có giá trị và nổi tiếng bậc nhất (so với các sách cùng loại của Phật giáo Việt Nam). Được xem như là một quyển sách “Gối đầu” (nằm) của Phật tử chuyên tu Tịnh độ.
– Năm 1966 – 1967: Hai quyển kinh sách sau đây được hoàn tất:
1. DUY THỨC HỌC CƯƠNG YẾU (biên soạn) dài gần 300 trang – quyển sách này giảng dạy hầu hết các phần quan yếu trong bộ môn Duy thức học.
2. ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI KINH: (Còn gọi là Thiên thủ, Thiên nhãn Vô ngại Đại bi Tâm Đà ra ni kinh) dài trên 150 trang – đây là một quyển kinh Mật tông, giảng dạy và hiển dương về oai lực của chú Đại bi, một thần chú rất phổ thông đang được dùng trong hầu hết các khóa lễ hiện nay nơi Phật tự.
(Đấy là chưa kể đến các bài vở Giáo khoa do ngài biên soạn ra để dạy trong 3 trình độ Sơ đẳng, Trung đẳng và Cao đẳng cho các Tăng sinh nơi Phật học viện Huệ nghiêm, các Ni trường Dược Sư – Từ Nghiêm và Viện Đại học Vạn Hạnh – các bài vở này nếu gom lại có thể dài đến hơn ngàn trang giấy.)
Một lần nữa đến đây ta nhận thấy gì?
– Ta nhận thấy rằng cố Hòa thượng quả nhiên là một bậc thầy lớn, một bậc đại sư về Phật học. Đối với đạo pháp và chư Phật tử lúc nào ngài cũng quan hoài đến bằng một tấm lòng trân trọng và thương sót chí tình, chí đạo mà trong đó tâm của ngài tuyệt nhiên chẳng hề khởi lên một ý niệm cầu tìm nào dù là một chút nhỏ về các việc phù tục lợi danh. (như một số lớn chư tăng đương thời vướng phải)
PHẦN IV:
GIAI ĐOẠN ẨN TU
(Nguyên nhân)
Có hai nguyên nhân chánh yếu đưa tới việc quyết định “Ẩn tu” của cố Hòa thượng.
Nơi đây Bảo Đăng tôi xin được trình bày như sau:
(Theo sự kể lại từ nơi một số đệ tử xuất gia và tại gia thân cận của ngài mà trong 2 lần về Việt Nam Bảo Đăng đã được tiếp xúc, phỏng vấn, ghi âm, và thu hình cùng với sự tường thuật lại của người cháu ruột kiêm đệ tử ngài là ĐĐ. Bổn sư THÍCH HẢI QUANG).
A. NGUYÊN NHÂN GẦN
(Chỉ nhắc lại các giai đoạn và một số sự việc có liên quan đến ngài vào thời gian sau này mà thôi, tức là từ sau năm 1964 – trước đó không kể).
Như chư độc giả đã biết qua trong các phần trước là cố Hòa thượng chỉ vì muốn báo đền ơn đức cho Thầy Tổ, giáo hội và đàn na tín thí nên mới rời khỏi nơi nhập thất, trở về Sài Gòn đảm nhận trách nhiệm từ Viện Hóa Đạo để thành lập, điều hành cùng đào tạo tăng tài cho Giáo hội tại Viện Cao Đẳng Phật học Huệ Nghiêm (từ năm 1964).
Thời gian này các tình hình rối loạn nội bộ của quốc gia cùng với những sự xáo trộn, tranh giành quyền hành lẫn nhau giữa các phe nhóm, đảng phái chánh trị đối với chính quyền quân nhân, mà trong đó tôn giáo (Phật Giáo – Công Giáo – Tin Lành) sinh viên, thanh niên, học sinh v.v… cũng có tham dự vào. Tóm lại là tình trạng đất nước vào giai đoạn này rất hỗn loạn và phức tạp (Việc này mọi người đều biết hết, nhứt là những người của gần 3 thập niên về trước).
Riêng về Phật Giáo thì…
– Một số quý thầy lớn (thuộc miền V-Ngh – Bắc) như thầy TC-HĐ-QĐ v.v…
– TQ – TM (Trung – Huế) và còn nhiều vị khác nữa, nhưng vì các việc đó không phải là trọng tâm chánh của quyển sách này nên không nói ra nhiều để tránh dài dòng cùng những sự đụng chạm cá nhân (có thể). Đa số các vị này đều tạm trú tại AQ và mượn danh nghĩa của Giáo hội để khởi xướng phong trào chống đối chánh quyền (quân nhân) lâm thời, đòi yêu sách cho Phật Giáo!
Đại khái là từ giai đoạn này trở đi (cho chí đến năm Ất Mão 1975) chẳng những hoàn cảnh xã hội, đất nước rối ren, dân chúng bên ngoài bị ảnh hưởng không thôi, mà thậm chí cho đến cả những người xuất gia trong đường đạo cũng bị cuốn lôi theo dòng thời cuộc, tức là bị liên quan vào các việc xuống đường, biểu tình, chống đối chính phủ v.v… Vả lại cũng có một số quý thầy lớn (phe diều hâu) vì muốn mau chóng được việc nên họ không ngại ngùng gì tìm đủ mọi cách để vận động thế lực, tạo thêm vây cánh cho mình, ngay cả đến việc vào trong Phật Học Viện vận động chư học tăng đứng về phe nhóm của họ nữa. Vì thế nên có một số tăng sinh trẻ tuổi, bồng bột kém suy nghĩ tại viện Cao Đẳng Phật học Huệ Nghiêm cũng bị cuốn theo vào dòng (thác lũ) chánh trị đó.
Đốc Giáo của Phật học Viện là Thượng Tọa THÍCH THIỀN TÂM không được hài lòng cho lắm khi thấy chánh trị đã bắt đầu xâm nhập vào trong Phật học đường mà đây lại chính là một “Viện Chuyên Biệt Phật Học” chỉ lo giáo hóa thuần túy về đạo pháp.
Là một vị tu sĩ chân chánh, nêu phần mô phạm và cương kỷ trong đạo nên ngài muốn và chủ trương rằng:
– Một khi đã cạo tóc xuất gia rồi, thì phải giữ vững lập trường và chí nguyện giải thoát ban đầu của mình, triệt để tuân theo lời Phật dạy, là lo chân thật tu hành, dầu cho có chết đi chăng nữa cũng không được “thay lòng, đổi dạ”.
Qua tôn chỉ đó và dưới sự lãnh đạo của ngài, ngài nghiêm cấm cũng như không chấp nhận bất cứ một tăng sinh nào của Phật Học Viện được phép tham dự vào trong các cuộc xuống đường, biểu tình hay hoan hô, đả đảo … hết.
Đã có nhiều lần, một số lớn (gần phân nửa) tăng sinh của Phật học viện đến thưa với ngài rằng:
– Bạch Thượng Tọa, xin cho phép chúng con được vào Sài Gòn tham dự cuộc xuống đường hôm nay để làm tăng thêm “sức mạnh” của Phật Giáo!
Ngài nghiêm sắc mặt chối từ (và liền sau đó giảng cho các vị ấy một thời giáo lý ngắn về bổn phận của người tu sĩ xuất gia).
Nhiều lần xin như thế …
Và cũng nhiều lần ngài từ chối cùng nghiêm cấm như thế.
Việc làm chơn chính, sáng suốt này của ngài để bảo vệ trường, bảo vệ chư học tăng và duy trì mạng mạch truyền thống của Phật Giáo như thế, lẽ ra phải được tán đồng và khích lệ, nhưng ngược lại là ngài chỉ nhận được thêm những lời chỉ trích chua cay …
Đại lược như:
– Thầy Thích Thiền Tâm là một con người yếu mềm, khiếp nhược …
– Thượng Tọa Thiền Tâm không có lòng “tương trợ” đối với giáo hội và bạn bè …
Hoặc là:
– Ối! Bỏ ông ấy qua một bên đi, ổng chỉ là một con chim bồ câu thôi, làm được gì cho Phật giáo nhờ cậy chớ, thời buổi này mà cứ như ổng thì có ngày bị vặt lông làm bồ câu hầm, bồ câu rô ti đó …
Ngay chính cả trong Phật Học Viện, một số tăng sinh có tinh thần “diều hâu”cũng nghe theo các lời xúi giục bên ngoài mà nói xầm xì rằng Trưởng giáo của chúng mình là một con người “ý chí khiếp nhược”, không có tinh thần “đồng đạo” …
Những lời cay đắng đại loại như thế hãy còn nhiều nữa …
Và Thượng Tọa Đốc Giáo cảm thấy buồn, thương xót cho Phật pháp trong thời buổi suy thoái nhiễu nhương này. Ngài tự thấy các lời dạy bảo và răn cấm chính đáng của mình cũng chỉ là một “tiếng vang trong sa mạc” mà thôi, chớ không được chút gì ảnh hưởng hết.
Sau nhiều ngày đêm suy nghĩ, ngài quyết định từ chức, ẩn tu (để cho khỏi thấy, nghe thêm các cảnh trái mắt, não lòng).
Đây là “nguyên nhân gần” về việc ẩn tu của cố Hòa thượng.
B. NGUYÊN NHÂN XA
Có 2 nguyên nhân xa:
1. Vì thấy trái lời Phật dạy.
2. Vì muốn tu tiến đạo và giải thoát.
1. VÌ THẤY TRÁI LỜI PHẬT DẠY:
a) Đối với NGƯỜI XUẤT GIA:
Là một bậc Đại Sư Phật học, Đốc giáo một Phật Học Viện có tiếng tăm vang dậy khắp nơi, là một vị đại tăng giới hạnh tinh nghiêm, chơn thật tu hành và thông suốt kinh điển, nhân nơi mắt thấy, tai nghe qua các việc làm phi đạo của quý thầy (diều hâu) như xách động biểu tình, chống đối chánh phủ, thuyết pháp mà không có pháp v.v… (thời thuyết pháp của họ chỉ thuần có các lời hung hăng cay đắng chỉ trích chánh quyền, khích động sự phẫn uất của dân chúng và Phật tử, kết cuộc là đưa đến sự biểu tình liền sau đó mà thôi. Việc này chính người viết tôi (và còn rất nhiều người khác trong giai đoạn này nữa là nhân chứng xác thực nhất.)) như thế, ngài mới sực nhớ lại lời Phật dạy rằng:
“Lại này Xá Lợi Phật, đời sau, các đệ tử của ta ít có Tỳ kheo nào mà trong thâm tâm mong cầu pháp Niết bàn tịch mịch, phần đông đều y theo ba sự nghiệp sau đây:
– Một là thường thích cầu danh lợi thế gian.
– Hai là tham ưa bè đảng, theo cầu thí chủ, qua lại chẳng ngớt.
– Ba là ưa thích nhà cao, cửa đẹp, chứa chất của tiền, vàng bạc, châu báu và các thứ đồ dùng.
Đây là y chỉ theo cầu ba sự.
Này Xá lợi Phất, Các Tỳ kheo ấy vì y chỉ ba sự như vậy cho nên không thoát khỏi ba ác đạo.
Này Xá lợi Phất, Các Tỳ kheo ấy chẳng muốn thoát khỏi bàng sanh, địa ngục, ngạ quỷ, mà trái lại họ siêng tu những pháp dứt đường sanh về cõi trời, họ lại siêng làm các sự tranh luận, ly gián, chê mắng lẫn nhau, họ lại ưa gần các ác hữu lòng tin chẳng thanh tịnh, bỏ chỗ vắng mà ở nơi náo nhiệt, cùng với người tục kết bè đảng.
Các nhà tục này bảo:
– Này Trưởng lão, nên thường xuyên đến nhà tôi, tôi sẽ cung cấp tứ sự cúng dường đầy đủ. Còn nếu như các trưởng lão cứ ở nơi thanh vắng ấy, chẳng chịu giao tiếp với người tục, thì chúng tôi làm sao mà thăm hỏi được.
Vì thế cho nên các Tỳ kheo ấy ngày ngày càng thêm thân cận với người cư sĩ tại gia hơn, cùng nhau trò chuyện, toàn những sự phiền tạp thế tục.
Này Xá lợi Phất, Các Tỳ kheo ấy thích ở chung và giao thiệp với hạng người bất lương tham trước chỗ ở chẳng hề di chuyển. Họ tìm bè đảng và luôn thăm viếng nhà thí chủ, đích thân đi mừng, đi điếu, do đó mà thầm kín thân ái lẫn nhau”.
(Kinh Pháp Hội Bồ Tát Tạng – Phẩm Tỳ Lê Gia Ba la mật. Tam tạng Pháp sư Trần Huyền Trang và Thích Trí Tịch dịch).
Lại nữa cố Hòa thượng Đốc Giáo Thích Thiền Tâm cũng nhớ lại lời Phật huyền ký rằng:
– “Này A Nan, sau khi ta nhập Niết bàn rồi, trong thời gian 500 năm rốt sau, nhóm người giữ giới, y theo chánh pháp lần lần tiêu giảm, các bè đảng phá giới, làm điều phi pháp, ngày càng tăng nhiều.
Do vì chúng sanh phỉ báng chánh pháp, gây nhiều ác hạnh nên phước thọ bị tổn giảm, các tai nạn đáng kinh khiếp nổi lên. Bấy giờ có các Tỳ kheo đắm mê danh lợi, không tu thân, tâm, giới, huệ. Họ tham trước những y, bát, thức ăn, sàng tòa, phòng xá, thuốc men rồi ganh ghét, tranh giành, phỉ báng lẫn nhau, thậm chí đem nhau đến quan Ty (thưa kiện), lời nói như đao kiếm … kết cuộc bị đọa vào trong ác đạo.” (Kinh Đại Bi).
b) Đối với NGƯỜI CƯ SĨ TẠI GIA:
“Trong 500 năm sau cùng, lúc Phật pháp sắp diệt, người nữ phần nhiều tinh tấn, ưa tu những công đức. Trái lại người nam phần nhiều kém lòng tin tưởng, thường hay giải đãi, khinh mạn, không thích nghe pháp, không tu phước huệ, khi thấy hàng sa môn chân thật tu hành thì rẻ rúng chê bai, xem như bùn đất …
Trong thế gian lúc ấy khó tìm ra được người lương thiện, còn kẻ ác thú thì nhiều như cát ở bãi biển, đạo đức suy đồi, chư thiên buồn thương rơi lệ.
Này A Nan, lúc đạo pháp của ta sắp diệt, đêm ngày rút ngắn, con người đoản mệnh (chết sớm) nhiều kẻ mới bốn mươi tuổi, tóc trên đầu đã điểm bạc.
Về phần người nam, bởi nhiều dâm dật nên hay chết yểu (chết lúc tuổi còn nhỏ), trái lại người nữ sống lâu hơn. Lúc ấy có nhiều tai nạn kinh khiếp, đáng sợ nổi lên như giặc cướp, bệnh tật, bão lụt…(Kinh Đại Bi)
2. VÌ MUỐN TU TIỀN ĐẠO VÀ GIẢI THOÁT
Ngoài việc suy nghĩ và nhớ lại các lời Phật dạy như trên, cố Hòa thượng Đốc Giáo Thích Thiền Tâm cũng còn nhớ thêm lời Phật dạy rằng:
…“Lại nữa, này Trí Quang, Bồ tát xuất gia phải xa lìa chỗ huyên náo (ồn ào), ở nơi A lan nhã [A lan nhã: Là chốn rừng núi thanh vắng mà các người tu ở. A lan nhã này còn gồm có thêm 4 nghĩa khác như sau:
– Vô tránh thanh: là nơi không có tiếng cãi cọ.
– Nhàn tịch: là nơi vắng lặng, thong thả.
– Không nhàn: là nơi trống trãi, rộng rãi, không náo nhiệt, được tự tại.
– Viễn ly xứ: là nơi xa tránh các sự bận rộn của đời.]
tu nhiếp tâm mình trong vô lượng nghìn năm để cầu Phật đạo.
Chư Như Lai trong ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) đều bỏ những nơi huyên náo mà ở nơi không an nhàn, vắng lặng, tu thêm muôn hạnh, chứng quả Bồ đề. Các bậc Duyên giác (Bích Chi Phật), Thanh văn (A la hán) và hết thảy chư hiền thánh, chứng được thành quả xưa nay cũng đều ở nơi tĩnh mịch như thế.
Nơi A lan nhã có mười thắng đức, làm cho các người tu chứng được ba quả Bồ đề [Ba quả Bồ đề: Phật Bồ đề, Duyên giác Bồ đề, Thanh văn Bồ đề]. Những gì là mười thắng đức?
– Một là, được tự tại. Bởi vì A lan nhã, trong bốn uy nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) không bị lệ thuộc nơi người khác.
– Hai là, bỏ “Ngã” và “Ngã sở”. (tức là không còn chấp ta và những cái của ta) không còn quan niệm chấp trước.
– Ba là, đối với các đồ ngồi, nằm (như giường nệm, bàn ghế) không còn ham đắm.
– Bốn là, ba độc tham, sân, si sẽ bớt đi dần dần.
– Năm là, tu hạnh xa lìa, không mong cầu ngủ dục của trời, người.
– Sáu là, ở nơi nhàn tịch, tu tập Phật đạo không tiếc thân mệnh.
– Bảy là, thích tịch tĩnh, thiện nghiệp thế gian dễ dàng thành tựu (bởi vì không có môi trường thuận tiện để phóng túng).
– Tám là, sự nghiệp giải thoát sẽ dễ dàng, không chướng ngại.
– Chín là, mau thành tựu được tam muội.
– Mười là, mau được đại trí huệ …
Trí Quang nên biết, nơi A lan nhã có vô lượng công đức như thế. Do vậy nên người Phật tử xuất gia thề bỏ thân mệnh chớ nhất định không bỏ núi rừng …
(Kinh Tâm địa quán – phẩm Vô cấu tính).
Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Trí Quang các ông nghe cho kỹ,
Nơi ở của người không phiền não:
Xa nơi huyên náo, ở tịch tĩnh,
Đó là những nơi thân tiên ở
Bồ tát ba đời cầu Bồ đề,
Ở nơi “lan nhã” thành chánh giác.
Duyên giác, Thanh văn các Thánh chúng,
Cũng ở nơi này chứng Bồ đề.
Ở A lan nhã được mười lợi;
Hay khiến chứng được quả tam thừa:
Du hành tự tại như Sư tử,
Trong bốn oai nghi không ràng buộc.
Dưới cây, rừng núi, bậc Thánh ưa.
Không “ngã – ngã sở” là lan nhã,
Áo mặc đồ nằm, không ràng buộc.
Ngồi “tòa sư tử”, tứ vô úy, (1)
Bỏ các phiền não là lan nhã.
Hết thảy tham ái không ham đắm,
Ở ngoài sự vật, chán trần lao.
Không còn ham mê ngủ dục lạc,
Người xa huyên náo, ưa tịch tĩnh.
Bỏ thân, xả mệnh cầu Phật đạo,
Ở nơi tịch tĩnh không tiếng người.
Tám loạn trong tâm không khởi được,
Nghiệp lành thế gian – xuất thế gian.
Tâm không chướng ngại đều thành tựu,
Bởi thế, lan nhã là căn bản.
Hay sinh tất cả thứ tam muội,
Lấy “Đại không tịch” làm hư không.
Thân tâm hành giả không chướng ngại,
Đầy đủ được mười thắng lợi ấy.
Thế nên các Thánh thường ở đó,
Trí Quang các ông, các phật tử.
Nếu muốn mau thành Nhứt thiết trí,
Cho đến trong mộng cũng không lìa:
Nơi A lan nhã: Bồ đề đạo.
Sau ta diệt độ, người muốn tu,
Thường hay ở nơi A lan nhã.
Không lâu sẽ ngồi Bảo hoa vương, (2)
Chứng được pháp thân: Thường lạc quả. (3)
(1) Tứ vô úy: Bốn cái đức dạn dĩ, chẳng sợ. Có được 4 cái đức này thì giáo hóa được tất cả chúng sanh mà lòng không khiếp sợ, chán nản.
Có hai loại tứ vô úy:
1. Tứ vô úy của Phật:
– Nhứt thiết trí vô sở úy: là có trí biết tất cả, nên không sợ bất cứ việc chi hết.
– Lậu tận vô sở úy: là có trí đức hết phiền não, nên không sợ bất cứ việc chi hết.
– Thuyết chướng đạo vô sở úy: là có trí giải hết các sự gút mắc trong đạo nên không sợ chi hết.
– Thuyết tận khổ đạo vô sở úy: là có trí giảng dạy các pháp dứt tất cả khổ nên không sợ chi hết.
2. Tứ vô úy của Bồ tát:
– Tổng trì bất vong, thuyết pháp vô úy: là giữ các pháp Phật dạy không quên, nên thuyết pháp không sợ.
– Tận tri pháp được cập tri chúng sanh căn dục, tánh tâm thuyết pháp vô úy: là biết rõ các món pháp dược trị bệnh chúng sanh, biết lòng tham muốn và căn tánh của chúng sanh, nên thuyết pháp không sợ.
– Thiện năng vấn đáp, thuyết pháp vô úy: là có tài vấn đáp nên thuyết pháp không sợ.
– Năng đoạn vật nghi, thuyết pháp vô úy: là trừ được các điều nghi của chúng sanh, nên thuyết pháp không sợ.
(2) Bảo hoa vương: Hoa sen cực quý – Đây ý nói ngồi tòa sen báu và thành Phật.
(3) Thường lạc quả: Gọi cho đủ là: Thường, lạc, ngã, tịnh – đây là 4 đức của Niết bàn.
Cố Hòa thượng suy nghĩ như thế liên tiếp suốt mấy tháng dài …
Ngài nhận thấy rằng kể từ khi về Sài Gòn đảm nhiệm các chức vụ của Giáo hội giao phó cho đến nay, đường tu của ngài chỉ đứng một chỗ thôi chớ không được tiến bộ như trước. Trách nhiệm và địa vị đã khiến cho ngài luôn bận rộn, nay tiếp xúc với Phật tử này, mai tiếp xúc với Phật tử kia, người thương, kẻ ghét, người trách, kẻ buồn. Hễ được lòng người này thì mất lòng kẻ khác, còn như muốn nói bãi buôi ngoài miệng cho được lòng hết thảy thì lại trái nghịch với tâm tánh của mình!
Và đây cũng lại là một lý do khác nữa. Khiến cho ngài khởi ý ẩn tu.
Kế đó ngài cũng suy nghĩ thêm rằng:
– Bổn phận của ta đối với Thầy Tổ, Giáo hội, Phật tử và các đàn na tín cúng, đã tròn chưa mà ta muốn đi ẩn tu?
Rồi ngài nhận thấy như sau:
1. Đối với Thầy – Tổ đã có ơn dạy dỗ, dắt dìu ta … thì ta cũng đã đáp đền lại bằng cách dạy dỗ và dẫn dắt cho các thầy khác trong đàn hậu tấn (các học chúng, học tăng) tự bấy lâu nay rồi.
2. Đối với Giáo Hội đã có công ơn đào tạo và thành tựu cho ta … thì ta cũng đã đền báo lại bằng cách tuân theo lệnh của Giáo hội, thành lập và điều hành Viện Cao Đẳng Phật học Viện Huệ Nghiêm này – dạy tại trường Đại học Phật giáo Vạn Hạnh. Ni trường Dược Sư, Từ Nghiêm, đào tạo nhiều học tăng được thành tài rồi. (Hoặc trực tiếp dạy tại Phật học viện, hoặc gián tiếp qua các kinh sách dịch thuật từ trước đến nay).
3. Đối với các Phật tử và đàn na tín cúng có ơn lo lắng, cúng dường tứ sự để cho ta được yên tâm tu học bấy lâu … thì ta cũng đã báo đền lại bằng cách giảng kinh, thuyết pháp, diễn dịch kinh sách, khuyến khích tu hành … nhiều lần rồi …
Như vậy thì bổn phận của ta cũng có thể gọi là được ít nhiều tròn đủ. Nay ta đã hơn nữa đời người rồi, tuổi đời còn lại cũng đâu có bao nhiêu. Vả lại, sống nay, chết mai nào ai biết được …
Nếu như ta lo sớm ẩn để tu hành và niệm Phật cho cực lực (hết sức) thì e rằng ngày cuối cùng sẽ không gặp lại được “Phật Hòa Thượng” năm xưa đã vì xót thương mà đóng cái “Phật ấn” của ngài trên trán (ta) mà thọ ký …Và, sau cùng hết ngài quyết định tối hậu: “Sẽ từ chức, ẩn tu”.
C. CHUẨN BỊ TỪ CHỨC – ẨN TU
Sau khi quyết định “từ chức để ẩn tu” xong rồi, tâm ngài được an ổn và ngài sửa soạn sắp xếp để lên gặp Ân sư là Hòa Thượng Hội Chủ, Phó Tăng Thống, kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Trụ trì Ấn Quang Tự THÍCH THIỆN HÒA trình bạch mọi việc, xin hoàn trả chức vụ để nhập thất, bế quan ẩn tu vĩnh viễn.
Liên tiếp nhiều đêm sau đó, ngài bâng khuâng suy nghĩ rằng:
– Nay ta phải đi về nơi nào để ẩn tu đây?
Câu hỏi này cứ lập đi, lập lại trong tâm hoài khiến cho ngài bị nhiều phen trằn trọc, suy nghĩ, đắn đo. Ngài niệm Phật cầu xin gia hộ và chỉ dẫn cho nơi “trụ xứ tương lai” của mình. Ngài không muốn phải thay đổi, tới lui chỗ này, chỗ kia như thời gian nhập thất, ẩn tu của hơn 10 năm trước nữa.
Ngài chỉ muốn có được một nơi duy nhất và sau cùng để rồi ở đó tịnh tu luôn cho đến ngày quy về với Phật mà thôi.
Đêm hôm đó, sau thời khóa trì niệm và nguyện cầu Phật gia hộ (về việc này) xong. Khoảng hơn 1 giờ sáng, khi vừa đặt lưng nằm xuống một chốc, ngài mơ thấy giấc mộng như sau:
(Tường thuật lại theo lời của ĐĐ. Bổn sư Thích Hải Quang (là cháu ruột, đệ tử kiêm thị giả, đã được tự thân nghe từ nơi cố Hòa thượng kể lại trong thời gian còn hầu cận bên ngài khoảng 20 năm về trước, khi hai thầy trò, chú cháu còn hẩm hút và đùm bọc bên nhau trong cùng một gian tịnh thất nơi Phương Liên Tịnh xứ).
… Nghe có tiếng gõ cửa và niệm A Di Đà Phật bên ngoài, ngài nghĩ rằng:
– Ủa, khuya rồi mà còn có thầy nào tới gõ cửa vậy kìa? (Thường thì giờ này ai nấy cũng đều đã yên giấc hết rồi).
Ngài ngồi dậy đi ra mở cửa.
Và ngài thấy bên ngoài có 2 vị tăng mặc hậu vàng, sắc diện thanh tú đoan nghiêm, đang đứng chấp tay cúi chào. Hai vị này thấy lạ chớ không phải là tăng chúng của Phật học viện (Huệ Nghiêm).
Ngài hỏi:
– Hai vị là ai, từ đâu lại và gõ cửa tôi có việc chi chăng?
Một vị lớn tuổi hơn đáp:
– Tuân Giáo chỉ tôn sư, đến đây cung thỉnh Thượng Tọa.
Ngài hỏi:
– Tôn sư của nhị vị là ai, và mời tôi có việc gì?
Cả hai đều đáp:
– Tôn sư của chúng tôi cũng là tôn sư của ngài, xin đến đó sẽ tự biết.
Cố Hòa thượng nghe nói vậy thì gật đầu, mặc hậu, đắp y vào rồi đi theo hai vị tăng ấy. Thấy mình cùng với hai vị tăng kia bay trên mây, vượt qua nhiều rừng, núi, sông hồ, sau cùng bay lướt lên trên một sườn núi cao và hạ xuống trên sơn đỉnh.
Đất nơi đây rộng rãi, bằng phẳng, màu xanh như cẩm thạch, cây cối thẳng hàng, hoa cảnh xinh tươi. Chính giữa đỉnh núi là một ngôi đại tự hùng vĩ, uy nghiêm, mái cong, ngói đỏ … kiến trúc mỹ lệ phi thường mà từ trước đến nay chưa từng trông thấy.
Hai vị tăng nói:
– Phận sự của chúng tôi đến đây là hết. Xin thỉnh ngài vào trong đại điện sẽ gặp tôn sư.
Nói xong chắp tay bái chào rồi đi mất.
Hòa thượng chỉnh lại y hậu đoạn bước vào trong đại điện. Các sự trang trí, bày biện nơi đây thảy đều cực kỳ siêu đẳng, tuyệt vời, rực rỡ không sao tả xiết: trên có tôn tượng Tây phương tam thánh cao vọi, xinh đẹp tuyệt trần đứng trong vị thế tiếp dẫn, dưới đến là thánh tượng của Đức Chuẩn Đề Đại Sĩ đầy đủ ngàn tay, ngàn mắt, oai vũ tuyệt luân, trang nghiêm đẹp lạ.
Ngài liền quỳ xuống cung kính đảnh lễ. Đâu đó xong xuôi hết rồi ngài mới nghĩ rằng:
– Sao vẫn không thấy Hòa thượng tôn sư trụ trì?
Đang khi có ý tìm kiếm bỗng nghe tiếng gọi:
– Thiền Tâm chớ tìm đâu xa, ta ở nơi đây.
Ngài ngó lại và nhận thấy là tiếng gọi ấy phát ra từ nơi thánh tượng của Đức Chuẩn Đề Đại Sĩ. Tuy lấy làm lạ nhưng ngài cũng đến quỳ xuống đảnh lễ và chắp tay chiêm ngưỡng thánh tượng.
Ngài thấy thánh tượng ấy như sau:
– Tượng thì là tượng Chuẩn Đề Đại $ĩ.
– Ngàn tay, ngàn mắt là của Đức Thiên Thủ, Thiên nhãn Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
– Bụng thì lại là bụng của đức Di lặc bồ tát (bụng bự).
Trong khi ngài còn đang suy nghĩ vì thấy lạ, thì nghe từ trong tượng vang ra tiếng nói:
– Thiền Tâm chớ lấy làm lạ. Ta đây chính là tôn sư của người. Sở dĩ ta hiện ngàn tay, ngàn mắt là vì ngươi trì chú Đại bi và Chuẩn đề đã được chút ít thành tựu [Gần trọn đời của Hòa thượng (từ khi mới tu cho đến bây giờ) ngài chuyên niệm Phật và trì chú. Đặc biệt là chú Đại bi và chú Chuẩn đề. Mỗi lần lễ Phật thì ngài trì niệm 108 biến chú Đại bi, một muôn câu chú Chuẩn đề và 100.000 câu niệm Phật ngài có soạn ra một pháp thức tu tên là: “Chuẩn đề, Đại bi, pháp nghi hợp thức” cho các đệ tử chuyên tu Mật tông hành trì.]. Còn ngươi thấy bụng ta lớn như bụng của ngài Di lặc là vì Ta từ bi, thương xót tất cả chúng sanh, hằng luôn mang mểnh để ở nơi lòng cho nên bụng mới lớn ra như vậy.
Cố Hòa thượng mới thưa rằng:
– Con nay được gặp Thánh tượng Tây phương Giáo chủ và Bồ tát rồi thì lòng nguyện con đã thỏa mãn và rất vui mừng. Xin ngài dạy con phải về nơi nào để nhập thất, ẩn tu hầu sớm được về bên Phật.
Bồ tát bảo:
– Ngươi hãy ra cửa, sẽ có người trao thư. Chỗ trụ xứ sau cùng của ngươi có ghi rõ trong đó.
Vậy hãy đi mau cho kịp thời giờ.
Ngài tuân lời, cúi lạy một lần nữa đoạn đi thụt lùi ra cửa. Sau khi ra đến ngoài sân rồi thì ngài nhìn ngó trước sau (trong ý tìm người đưa thư) và rảo bước vòng quanh để xem phong cảnh.
Đang khi đi ngài chợt nghe phía sau lưng mình có tiếng gọi:
– Thiền Tâm đang kiếm ta phải không?
Ngài quay đầu ngó lại thấy đó là Hòa thượng Bổn sư THÍCH PHẬT ẤN năm xưa, nên lật đật quỳ xuống đảnh lễ. Hòa thượng đỡ dậy bảo:
– Ta mừng cho ngươi đạo quả gần thành. Tuy nhiên cũng còn sót lại một ít nghiệp nhỏ phải chịu nữa, hãy cố gắng vượt qua thì sẽ được “đắc kỳ sở nguyện”.
Đoạn lấy trong mình ra một phong thư, bảo:
– Đây là phần đời còn lại của ngươi. Chỗ trụ xứ tương lai và kỳ hạn vãng sanh thảy đều có ghi đủ ở trong đó. Để ta cho người đưa ngươi về.
Ngài quỳ xuống lạy và tiếp lấy thư, vừa cúi lễ xong, ngước đầu nhìn lên thì thấy mình đã về đến nơi tịnh thất (ở Huệ Nghiêm) từ lúc nào rồi, trên tay vẫn còn cầm lấy phong thư màu trắng với mùi hương lạ vẫn còn thoang thoảng bay ra.
Ngài mở bao thơ ra xem, bên trong có một tờ giấy vàng, ghi bài “kệ” sau đây:
“SÁU TÁM lắm gian nan,
Nhơn quả chớ than van.
Thấy NINH thời ĐẠI đến,
Gặp PHÚ ắt bình AN.
LIÊN HƯƠNG thơm sực nức,
Còn chút nghiệp phải mang.
Ngọt chua hai bốn chẳn,
THÂN xuất đáo LIÊN BANG”.
Đang khi ngài cầm bài thơ và suy nghĩ thì tiếng chuông trống (của thời công phú Lăng Nghiêm sáng từ nơi chánh điện) vang lên. Khiến cho ngài giật mình tỉnh giấc, vẫn còn ngửi được mùi hương lạ từ nơi thân thể thoang thoảng bay ra một hồi lâu mới hết.
Ngài vội ngồi vào bàn viết, lấy giấy bút ra biên lại bài kệ (trên) để suy tìm nghĩa lý. (và ghi lưu hậu luôn cả giấc mộng này).
(Đến đây, Bảo Đăng con xin tạm dừng bút lại và đầu thành đảnh lễ Tôn sư Thượng THIỀN hạ TÂM, Đại lão Hòa thượng chi Giác linh, thùy từ chứng giám cho con được chú giải lại ý nghĩa của bài kệ này).
Câu thứ nhất:
(Phần chú giải sau đây đã được ĐĐ. Bổn sư THÍCH HẢI QUANG hướng dẫn – qua lời chú giải của cố Hòa thượng đã dẫn dắt cho thầy trước kia, khi thầy còn hầu cận bên chú ruột của mình nơi Phương Liên Tịnh xứ vào trước năm 1978).
SÁU TÁM lắm gian nan
Chữ SÁU TÁM đây có ba ý nghĩa:
1. Sáu tám là sáu mươi tám tuổi (Hòa thượng thọ được 68 tuổi đời).
2. Sáu tám là 6 x 8 = 48 (Hòa thượng được 48 hạ lạp).
3. Sáu tám là năm 1968 khi cố Hòa thượng bắt đầu lìa Sàigòn để về Đại Ninh.
Toàn câu này ý nói:
– Cố Hòa thượng thọ được 68 tuổi đời (1925-1992) và 48 tuổi đạo. Trong suốt thời gian này, và bắt đầu từ năm 1968 trở đi, cuộc đời của ngài phải chịu nhiều nỗi gian nan, vất vả (nơi chốn hồng trần. Vả lại vì chỉ sống có một thân, một mình nơi rừng núi (Đại Ninh) cho nên phải bị gian nan, cực khổ).
Câu thứ hai:
Nhơn quả chớ than van.
Là ý nói các việc buồn, vui, sướng, khổ v.v… tóm lại là cuộc đời của cố Hòa thượng sở dĩ bị nhiều nổi trân chuyên vất vả, như vậy là do nơi nhơn quả của ngài gây tạo ra trong tiền kiếp, hãy nhẫn chịu chớ đừng có than van, trách hờn chi cả cho dù có bị lấy oán trả ơn, hay là gì gì đi chăng nữa.
Câu thứ ba:
Thấy NINH thời ĐẠI đến,
Trong câu này có hai chữ ĐẠI NINH (tức là tên nơi trụ xứ của cố Hòa thượng) và lại cũng có ý nói rằng:
Hễ ngài về đến ĐẠI NINH rồi thì cái THỜI đại (thành tựu việc tu hành) của ngài sẽ ĐẾN – quả vậy, ĐẠI NINH chính là trụ xứ sau cùng của ngài, ở nơi đây ngài tiến tu – hoằng đạo (khai nguyên ra hệ phái “Mật Tịnh Đại Ninh” cho các môn đồ, pháp quyến tu tập lưu truyền cho đến mãi mãi về sau), và được vãng sanh, giải thoát.
Câu thứ tư:
Gặp PHÚ ắt bình AN.
Trong câu này có hai chữ PHÚ AN (tức là thôn Phú An), tên của nơi mà ngài sẽ về đến để nương, ẩn, tu hành.
Câu này có ý nói rằng:
– Hễ gặp Phú An rồi thì cứ trụ ở đấy, tất sẽ được an ổn. Quả thật vậy, kể từ khi ngài về tại ấp Phú An (Đại Ninh) ẩn tu rồi thì (sau đó) gặp không biết bao nhiêu cảnh sóng gió, não phiền. Như là bị vu báng, mạ lỵ, hủy phá (trong tờ di chúc của ngài có nói đủ) v.v…
Trung ương thành ủy Phật giáo thành phố v.v…), nhiều lúc rất nguy ngập tưởng chừng như sắp sửa bị bắt cóc hoặc bị ám sát tới nơi rồi, nhưng vào giờ phút chót ngài đều được tai qua nạn khỏi hết, đúng như câu: Gặp PHÚ ắt bình AN. ở trên vậy.
Câu thứ năm:
LIÊN HƯƠNG thơm sực nức
Trong câu này có hai chữ Liên Hương, đây là tên của hai đạo tràng do ngài kiến lập ra là:
+ Hương Nghiêm Tịnh viện (tức là chữ Hương)
+ Phương Liên Tịnh xứ (tức là chữ Liên)
Lại nữa chữ Liên Hương cũng còn có thêm 2 nghĩa khác nữa là:
– Mùi thơm của bông sen (Ám chỉ cho danh tiếng của ngài là một tôn sư hoằng dương môn Tịnh độ lừng lẫy nhất của Phật giáo Việt Nam).
– Tượng trưng cho pháp môn Tịnh độ (Liên là bông sen – Tịnh độ tông) mà ngài đã cố công hoằng hóa trọn cả đời tu tập của mình.
Câu này có ý nghĩa như sau:
– Khi về trụ tại nơi đây (Phú An và Đại Ninh) thì ngài thành lập ra hai đạo tràng: Hương Nghiêm Tịnh viện và Phương Liên Tịnh xứ để hoằng dương tông Tịnh độ, thanh danh của Hòa thượng tôn sư Thích Thiền Tâm, tông chủ của hệ phái “Mật Tông – Tịnh Độ Đại Ninh” bay xa và lừng lẫy khắp nơi, mọi người ai nấy cũng đều nghe biết, kính trọng đúng với ý nghĩa câu: Liên Hương thơm sực nức.
Câu thứ sáu:
Còn chút nghiệp phải mang.
Câu này có ý nói:
– Tuy mang danh là tông chủ của hệ phái “Mật Tông – Tịnh Độ Đại Ninh” mà danh tiếng (được hầu hết các Phật tử và mọi người trong nước tôn xưng là Phật sống, thánh tăng, hiền tăng v.v…) lẫy lừng khắp nơi trong quốc hội và ngoài quốc ngoại như vậy, nhưng ngài cũng còn có chút nghiệp phải mang:
Vậy là nghiệp gì?
Theo lời ĐĐ. Bổn sư kể lại như sau:
– Sau năm Ất Mão 1975 rồi, có dạo cố Hòa thượng nói với hai đệ tử thân cận là: Ni sư Thích nữ Thanh Nguyệt (trưởng tử), cháu ruột kiêm đệ tử là ĐĐ. Bổn sư thích Hải Quang như sau:
– Cách đây gần một năm, thầy có mơ thấy Đức Quán Âm báo mộng và cho biết rằng thầy bị nghiệp ở tù, do kiếp trước ưa nuôi nhốt chim lồng, cá chậu nên kiếp này phải chịu trả quả trước khi vãng sanh.
Nếu muốn tránh nạn này thì thầy phải tự giam mình trong thất mới qua khỏi được (Bằng không sẽ bị chánh quyền mới nhốt).
Sau đó ngài tuyên bố bế quan Ẩn tu kín (tức là nhật thất, ẩn tu luôn, không bước ra ngoài và cũng không tiếp xúc với bất cứ một ai hết – coi như là bị ở tù vậy), vô thời hạn (từ tháng 5/1975 dl cho mãi đến lúc thị tịch, vãng sanh vào ngày 14/12/1992 dl – trước sau gồm có hơn 17 năm từ ở (trong thất). Chẳng những như thế mà (sau này khi ĐĐ. Bổn sư xuất ngoại rồi) ngài còn cho bọc thêm ba lớp vòng rào kẽm gai chung quanh thất của ngài nữa.
(Đây thiệt rõ ràng là một cái “nhà tù” giam người, bên ngoài có hàng rào kẽm gai bao bọc).
Sở dĩ ngài làm như thế là vì ngài muốn giải trừ cái nghiệp bị ở tù của mình (vậy mà vẫn còn bị nhiều phen bầm dập). Ngài có nói với cháu là ĐĐ. Bổn sư thích Hải Quang rằng: Còn chút nghiệp (ở tù) phải mang của cố Hòa thượng vậy.
Câu thứ bảy:
Ngọt chua hai bốn chẳn,
Ngọt, chua đây là ý nói nếm đủ mùi vị của đời, khen (ngọt), chê (chua) – nói tốt (ngọt), nói xấu (chua) – kính trọng (ngọt) – hủy phá (chua) v.v…
Hai bốn chẳn – Hai chữ “hai bốn” đây là “24 năm chẵn chòi” còn lại của đời ngài.
(Ngài chánh thức về ẩn tu tại Đại Ninh vào năm 1968 – thị tịch vãng sanh vào tháng 11 Âl năm 1992 – Trước sau có tất cả là 24 năm mà ngài trụ ở thôn Phú An, Đại Ninh này).
Trong vòng 24 năm đó, cuộc đời của ngài đã chịu không biết bao nhiêu cảnh “ba chìm, bảy nổi, tám chín linh đinh” kể sao cho xiết! (Cũng do mấy người tăng ni, đệ tử, sanh ghét trước danh tiếng quá lẫy lừng của ngài, nên tìm đủ mọi cách phá hoại, hủy nhục hầu dìm ngài xuống, để cho họ được nổi lên. Các việc này trong di chúc ngài cũng có nói đến – sẽ được đọc đến nguyên văn di chúc của ngài, đăng ở phần sau).
Đây là chư Phật, Bồ tát đã dạy cho ngài biết trước để mà lập tâm nhẫn nhục (sau này). Và cũng chính nhờ vì biết được như vậy, cho nên mặc dù bị quá nhiều “NGỌT – CHUA” suốt 24 năm trời như thế mà tâm ngài vẫn không vui mừng, hân hạnh hay buồn khổ, tức tối chi hết.
Thiệt là rất đáng phục thay cho cái đức “Nhẫn nhục” cao cả của ngài.
Câu thứ tám:
THÂN xuất đáo LIÊN BANG.
Chữ THÂN trong câu kệ này hàm hai ý nghĩa:
1. THÂN đây là tư thân của ngài.
2. THÂN đây cùng còn có thêm nghĩa khác nữa là năm THÂN (ngài tịch vào năm NHÂM THÂN (năm con khỉ). Và đây chính là ý nghĩa của chữ “THÂN XUẤT” vậy).
Câu kệ này có ý tiên tri cho ngài biết là:
a) Sau khi ngài bỏ THÂN tứ đại (thân xuất) này rồi thì sẽ đáo thẳng về Tây Phương Cực Lạc (Liên bang tức là cõi bông sen) của đức từ phụ A Di Đà.
b) Năm NHÂM THÂN (1992) thì thần thức của ngài sẽ xuất ra khỏi thân giã huyễn (viên tịch) và rời nước Việt Nam của miền Nam Thiện bộ châu thuộc cõi Ta bà này, sanh thẳng về Cực lạc (Liên bang) – nơi mà ngay từ khi mới khởi lên bảy tuổi ngài đã được thọ ký là sẽ sanh về.
Và quả thật như vậy.
Ngài vãng sanh vào lúc 6 giờ 15 phút sáng ngày 21-11 Âl năm Nhâm Thân (14/12 dl – 1992) – thần thức xuất ra khỏi THÂN tứ đại giả hợp ngay trên bàn tọa tại tịnh thất Phương liên và đáo thẳng về nơi Cực lạc đúng với câu:
THÂN xuất đáo LIÊN BANG.
Cuối cùng trong bài kệ mà Tây Phương Tam Thánh và Đức Chuẩn Đề Bồ tát đã trao cho ngài trước kia ở núi thánh điện vậy.
Đến đây, một lần nữa, kính bạch cố Hòa Thượng tôn sư, đệ tử là đồ tôn Bảo Đăng và tất cả các môn đồ, pháp quyến chúng con, một lòng đảnh lễ:
Nam mô Hoằng dương môn Tịnh độ, Đại Ninh, Liên Tông khai sơn tổ sư, Phương Liên Mật Tịnh đạo tràng – VÔ NHẤT ĐẠI SỰ – THÍCH THIỀN TÂM Hòa Thượng – tác đại chứng minh (Tam xưng tam bái).
Trở lại việc chuẩn bị xin từ chức, ẩn tu của cố Hòa thượng.
Hơn một tuần lễ sau từ hôm nhận được bài kệ ở nơi cố Hòa thượng bổn sư PHẬT ẤN trước sân của thánh điện trong giấc mơ rồi. Ngài thường xuyên xem xét bài kệ đó để suy tìm ý nghĩa ẩn tàng bên trong. Một hôm nọ, sau thời khóa trì niệm, ngài cảm thấy tâm thể mình rất thanh tịnh và các bí nghĩa của bài kệ mà gần nửa tháng qua ngài vẫn chưa thấu triệt được bỗng nhiên hiện ra rất rõ ràng (như vừa giải thích ở trên). Khiến cho ngài như người ngủ mê chợt tỉnh:
– Ngài thấy rõ rằng mình phải sẽ đi đến một địa phương mới có tên là ĐẠI NINH hoặc PHÚ AN gì đó … để ẩn tu và hoằng dương về môn Tịnh độ. Ở tại nơi này mình cũng có được chút ít tiếng tăm tốt và cũng sẽ phải chịu trả một ít nghiệp quả tiền khiên trong suốt 24 năm dài và cuối cùng, đến năm mình 68 tuổi sẽ được vãng sanh về Cực lạc quốc.
Ngài thấy và biết được cái ý nghĩa ẩn tàng bên trong bài kệ như vậy.
Nhưng sau đó rồi ngài lại băn khoăn khi nghĩ đến việc:
– Đại Ninh ở đâu?
– Phú An ở chốn nào?
Các địa phương này thuộc về miền Nam, miền Đông hay miền Trung. Đất nước rộng lớn, bao la như vậy ta làm sao biết được địa điểm để mà tìm?
Đoạn ngài nghĩ tiếp:
Nhưng mà cũng không sao, nếu như chư Phật, Bồ tát muốn cho ta về trụ ở nơi đó thì thế nào cũng xui khiến có người đến chỉ chỗ cho ta. Chỉ sớm hay muộn mà thôi, điều quan trọng là ta đã biết “NÓ” tên là gì rồi, thì “NÓ” chạy đâu cho khỏi được. Rồi ngài lại an tâm trong công việc và các thời khóa tu tập thường nhật của mình.Bốn tháng sau – Vào tháng 10 dl 1967.
Hôm đó nhằm ngày chúa nhật, khoảng hơn 10 giờ sáng, có một người tục gia đệ tử của ngài quê ở Bến Tre (trong ban trị sự của chùa Phật Quang) về Sài Gòn và đến Huệ Nghiêm thăm thầy (tức là cố Hòa thượng). Đạo hữu này pháp danh là Minh Thiện, thế danh tên là Tr.K.T., trước kia làm nghề buôn bán cá từ Biển Hồ (Cao Miên) về miền lục tỉnh – có một dạo đó, đạo hữu này vừa mua sỉ xong một số cá tươi rất lớn mới vừa được lưới từ Biển Hồ lên, đang sửa soạn cho người để xuống ghe chài để chở đi bán lại cho các vựa cá. Lúc ấy đâu khoảng gần 11 giờ trưa, đạo hữu này đang ngồi tại bàn viết tính toán tiền bạc, sổ sách, … thì chợt thấy buồn ngủ quá, không sao gượng được nên gục đầu xuống mặt bàn thiếp đi.
Vừa mới nhắm mắt chưa đầy một phút đồng hồ thì đạo hữu Minh Thiện mơ thấy như sau:
– Từ bên ngoài cửa, có hơn 20 người, đủ cả nam, nữ, già trẻ và con nít, đầu đồng đội mũ đỏ, mình mặc cũng đồng một thứ áo màu xanh có điểm chấm vàng, thần sắc và dung mạo đều tiều tụy, ốm yếu xanh xao, dường như bị mang bịnh nặng nên bước không muốn vững, người này phải nương tựa nơi người kia mà đi. Tất cả các người đó đều bước vào trong văn phòng làm việc, quỳ xuống trước mặt Đạo hữu Minh Thiện lạy mà thưa rằng:
– Chúng tôi toàn thể gia đình trên 20 sanh mạng, hôm nay rủi đi lầm đường nên bị bắt cả. Thân sẽ bị chết trong giây lát đây thôi. Chỉ có ông là người duy nhất cứu được chúng tôi, xin ông mở lòng rộng lượng, ơn ấy kiếp kiếp không quên.
Đạo hữu Minh Thiện mới hỏi:
– Mấy người là ai, ở đâu, bị nạn gì mà nhờ tôi cứu, tôi làm sao có được khả năng để cứu cho quý vị.
Mấy người ấy lạy mà thưa rằng:
– Xin ông ra phía trước, chỗ các nhân công của ông đang làm việc thì sẽ thấy chúng tôi ở đó. Chúng tôi đồng mặc áo xanh điểm chấm vàng và trên đầu cũng đồng đội mũ nhọn màu đỏ như hiện giờ. Nhờ ông mở lòng từ bi cứu độ cho. Sở dĩ chúng tôi dám mạo muội cầu ông cứu giúp bởi vì được biết ông là đệ tử của một bậc nhục thân Bồ tát thời nay là Đại Đức THIỀN TÂM, ngài ấy có lòng từ bi rất lớn, ông là đệ tử của người xin nguyện nương theo đức cả mà thương tình cứu tử cho cha con, chồng vợ chúng tôi để được sống thêm tu niệm cho thoát nghiệp trong kiếp lai sanh.
Đạo hữu Minh Thiện mới hỏi:
– Được rồi, thôi ra đi ta sẽ cứu cho (hứa đại chớ cũng không biết họ là ai). Mấy người kia lạy tạ ơn rồi dìu nhau ra cửa đi mất. Minh Thiện giật mình thức dậy, trán đổ mồ hôi, tim đập mạnh, lòng bắt đầu hồi hộp không an, liền chạy ra ngoài cửa, nhắm theo hướng mấy người ban nảy bước đi mà nom theo, thấy các người làm công đang đổ cá từ trong lưới xuống ghe, chài, lòng bỗng nhiên động tâm, suy nghĩ:
– Có khi mấy người ban nãy là các thần ở dưới biển hồ này, lội đi chơi bị dính lưới chăng? Chắc có lẽ như vậy nên mới lạy mình và nói chỉ riêng mình là có đủ khả năng cứu được họ mà thôi, hơn nữa sao họ lại còn biết được tên sư phụ của mình kìa? Do vì nghĩ như thế nên Minh Thiện vội bước tới chỗ đổ cá để xem thì thấy có một mẻ lưới vừa đổ xuống một đống cá tươi, trong đó có hơn 20 con cá, lớn thì bằng một đứa con nít 2, 3 tuổi, nhỏ cũng bằng bắp vế, da của tất cả các con cá này đều cùng một màu xanh biếc, điểm chấm vàng như hột bắp, trên đầu có một vết màu đỏ tươi lớn bằng bàn tay nằm vắt ngang, mới xem qua dường như đội mũ (đỏ) vậy.
Các con cá này ngáp ngáp gần như muốn chết, mắt nhìn Minh Thiện trân trân như đang cầu cứu. Vừa thấy mấy con cá này xong, Minh Thiện sợ muốn bay hồn, cả mình mọc ốc, biết hơn 20 người cha con, chồng vợ mà mình gặp trong mơ ban nãy chính là đây rồi, liền ra lệnh bắt lên thả xuống nước hết.
Tối đến nằm ngủ, mơ thấy một lần nữa hơn 20 người đó đến lạy và tạ ơn cứu mạng.
Từ đó Minh Thiện bỏ luôn việc buôn bán cá và chuyển sang nghề khác. Và cũng kể từ dạo đó, đạo hữu Minh Thiện này mới biết thầy mình là một bậc Bồ tát thời nay, nên càng thêm kính trọng bội phần.
Hôm nay nhơn dịp có chút việc về Sài Gòn, nhớ đến thầy nên ghé qua chùa Huệ Nghiêm để viếng thăm, đảnh lễ,…
Trong khi trò chuyện, cố Hòa thượng có hỏi:
– Lúc này còn làm nghề cũ không “Sao lâu quá không gặp?”
Minh Thiện thưa rằng:
– Bạch Thượng Tọa, mấy năm nay vợ chồng con đã đổi việc làm ăn rồi nên không còn làm nghề cũ nữa. Chúng con cũng đã dời nhà đi nơi khác, xa xôi quá nên ít được dịp về thăm thầy mặc dù lòng con lúc nào cũng luôn tưởng nhớ.
Cố Hòa thượng hỏi:
– Làm nghề gì và dọn nhà đi đâu?
– Bạch Thầy, làm nghề buôn bán rau cải Đà Lạt và dọn nhà ra ngoài đó ở mấy năm rồi.
– Ở tại chợ Đà Lạt phải không, nghe nói khí hậu nơi đó mát và tốt lành cho sức khỏe lắm.
– Bạch Thượng Tọa không, cách Đà Lạt khoảng 40 cây số, nơi con ở là một ấp nhỏ, cũng tương đối yên ổn và thanh tịnh.
Cố Hòa thượng hỏi?
– Chỗ đó tên gọi là chi?
Minh Thiện đáp:
– Bạch Thượng Tọa, nơi con ở tên là Đại Ninh.
Cố Hòa thượng giật mình, liền hỏi tiếp:
– Đại Ninh có phải là Phú An không?
– Dạ, bạch Thượng Tọa phải rồi, Đại Ninh là tên của vùng, còn tên của thôn, nhà con đang ở nằm tại thôn Phú An. Bạch Thượng Tọa, bộ thầy cũng biết nơi này nữa sao? (Trúng mánh, vô cơ rồi)
Hòa thượng mỉm cười (chắc có lẽ lúc đó trong tâm của ngài vui và cảm ơn trời, Phật lắm) nói: